Trước hết, đó là sự chuẩn bị về thế trận và vai trò chỉ đạo của Đảng về liên tục tạo lập thế trận trong đại thắng Mùa Xuân 1975. Khi địch buộc phải ký kết Hiệp định Pa-ri và chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” cũng là lúc chúng rơi vào thế bất lợi. Về chính trị, chính quyền Nguỵ liên tiếp đảo chính lẫn nhau, Mỹ mất mặt trên trường quốc tế. Về quân sự, các binh đoàn Nguỵ chỉ đủ sức co về chi khu quân sự lớn, không kiểm soát nổi các vùng nông thôn và vùng giáp ranh. Tuy nhiên, để hy vọng giành lại thế chiến lược quân sự, chúng đã tập trung bố trí lực lượng chủ chốt ở những địa bàn cực kỳ quan trọng như Tây Nguyên, Đà Nẵng và cửa ngõ Sài Gòn. Về phía ta, cùng với thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, việc chuẩn bị chu đáo mọi mặt đã làm cho Chiến dịch Hồ Chí Minh ở vào thế “đứng trên đầu thù”. Song, trong chiến tranh, giành được thế trận có lợi đã khó thì duy trì và phát huy được thế trận ấy còn khó hơn nhiều. Và Chiến dịch Hồ chí Minh đã thực hiện được điều đó.
Việc lựa chọn điểm đột phá Buôn Mê Thuột đã thể hiện sự sáng suốt của Trung ương Đảng và Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam về liên tục tạo lập thế trận, vì khi ta chiếm được cứ điểm này đã giáng đòn quân sự chí tử bẻ gãy “xương sống phòng thủ” của địch là Tây Nguyên. Tiếp đó, ta thắng ở Đà Nẵng, làm cho ý đồ “tử thủ” của địch bị phá sản nghiêm trọng, cố vấn Mỹ lo di tản, tướng tá Nguỵ lo chạy về Sài Gòn. Thuận đà, ta chỉ đạo đánh đồng loạt khiến địch vỡ trận để thừa thắng, ta đánh dọc Nam Trung bộ chỉ trong vòng chưa đầy một tháng. Sự liên tục tạo lập thế trận có lợi đã giúp chúng ta tập trung được hầu như toàn bộ lực lượng vào trận quyết chiến tại Xuân Lộc - cửa ngõ Sài Gòn. Và đến sáng ngày 30-4-1975, năm cánh quân ta từ năm hướng đồng loạt tiến thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch, chiếm Dinh Độc lập cùng các mục tiêu trọng yếu, bức hàng chính phủ nguỵ quyền, làm tan rã hoàn toàn bộ máy tay sai khi vẫn còn hàng vài chục vạn quân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ hai, đó là thời cơ và vai trò chỉ đạo của Đảng về liên tục phát triển thời cơ trong đại thắng Mùa Xuân 1975. Khác với thời kỳ Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, lúc này địch đã bị phá sản về “Chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh” - chiến lược phản cách mạng cuối cùng của chúng, nên xét một cách toàn diện thì thế và lực của chúng đã suy yếu nghiêm trọng. Đồng thời, trên cơ sở liên tục tạo lập được thế trận có lợi cùng với sự phát triển của phong trào kháng chiến toàn dân và sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang cách mạng, thời cơ giải phòng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đã tới điểm chín muồi.
Tất nhiên, không phải bất cứ ai đứng trước thời cơ có lợi cũng có thể tận dụng được. Chính vì vậy, khi điều kiện khách quan cho phép, điểm nổi bật ở đây là sự sáng suốt của Đảng ta trong nhận định tình hình và xác định thời cơ chín muồi ấy. Hơn nữa, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh Mặt trận đã chủ trương nổ súng tổng tiến công vào thời điểm mà địch hoàn toàn bất ngờ. Điều đó giúp các quân đoàn chủ lực liên tục tiến công địch với phương châm “thần tốc, táo bạo, quyết thắng”, không cho địch có thời gian để hồi phục. Đồng thời, điều đó cũng cho phép phối hợp chặt chẽ Tổng tiến công bằng lực lượng quân sự với nổi dậy đồng loạt của đồng bào giành và giữ chính quyền cách mạng. Sự nhạy bén của Trung ương Đảng và Bộ Tư lệnh Mặt trận còn thể hiện ở việc điều chỉnh kịp thời kế hoạch thời gian, cho nên từ chủ trương giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976, Đảng ta đã kịp thời tận dụng thời cơ chín muồi để chuyển sang quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975 và cuối cùng quyết định giải phóng miền Nam chỉ trong tháng 4-1975. Thắng lợi vang dội của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã chứng minh tính đúng đắn của các quyết tâm chiến lược ấy.
Thứ ba, đó là sự chuẩn bị về chuẩn bị lực lượng quân sự và vai trò chỉ đạo của Đảng về sử dụng hợp lý và liên tục chuyển hoá lực lượng trong đại thắng Mùa Xuân 1975. Sở dĩ ta hoàn toàn phát huy được thế trận và thời cơ có lợi chính là do quá trình lớn mạnh của phong trào cách mạng của quần chúng và các lực lượng vũ trang cách mạng đã tới điểm chín muồi. Cả ba thứ quân đều trưởng thành vượt bậc: bộ đội chủ lực đã đủ sức tác chiến cấp quân đoàn; bộ đội địa phương cũng có thể tổ chức chiến đấu đến cấp sư đoàn; dân quân du kích đã phát triển rộng khắp đủ sức làm nòng cốt cho quần chúng nhân dân tạo ra sức ép "bức rút, bức hàng" đối với địch. Trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội và trang bị vũ khí cũng được chuẩn bị đầy đủ để tiến hành đánh lớn. Phương án tác chiến đã phát triển từ đánh du kích, nhỏ lẻ, phòng ngự - phản công sang tiến công thần tốc, đồng loạt bằng tác chiến hiệp đồng nhiều thứ quân. Tuy nhiên, với lực lượng quân sự đã được chuẩn bị đầy đủ về sức mạnh chiến đấu tổng hợp, Đảng ta vẫn chủ trương "tập trung lực lượng vào hướng, mũi đột phá chủ yếu".
Nhờ phương thức sử dụng sức mạnh quân sự hợp lý đó, chúng ta đã thực hiện được sự kết hợp giữa tiêu diệt lực lượng trọng yếu với phá vỡ ý đồ tử thủ của địch. Hơn nữa, chúng ta đã thực hiện được vừa đánh địch, vừa liên tục bổ sung và phát triển lực lượng, vừa tác chiến vừa kịp thời rút kinh nghiệm nâng cao trình độ nghệ thuật quân sự và trình độ mọi mặt, cho nên càng đánh càng mạnh, cả ba thứ quân càng chiến đấu càng trưởng thành. Đặc biệt, đại thắng mùa Xuân 1975 cũng chính là dấu ấn khẳng định Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến tranh đã tạo tiền đề để tiến lên "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại" với yêu cầu ngày càng cao.
Giá trị lịch sử của đại thắng mùa Xuân 1975 không chỉ ở chỗ mở ra tiền đồ mới đối với dân tộc Việt Nam - tiền đồ của cả nước thống nhất trên con đường dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, chứng minh hùng hồn rằng một dân tộc biết đoàn kết xung quanh chính đảng Mác-xít Lê-nin-nít có chiến lược cách mạng đúng đắn, hoàn toàn có thể đánh bại những tên đế quốc hùng mạnh. Đại thắng mùa Xuân 1975 còn toả sáng giá trị hiện thực trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay, khi cả dân tộc ta đã và đang giành được những thành tựu ngày càng to lớn trên con đường đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, để phát huy được những giá trị chân chính ấy, điều quan trọng là cần phải dự báo chính xác những vấn đề chiến lược trước tình hình có thể sẽ phải đối phó với chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của địch. Đồng thời, chúng ta cần có giải pháp hiệu quả để kế thừa các giá trị lịch sử - truyền thống, nhằm phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam lên tầm cao mới, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm lịch sử về chiến lược quân sự cách mạng trong chiến tranh nhân dân giải phóng nhằm xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; chuẩn bị tiềm lực tổng hợp của đất nước sẵn sàng tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chiến công oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã chứng minh đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn; sự lãnh đạo và chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương rất sắc bén, chính xác, kịp thời, kiên quyết. Đại thắng mùa Xuân 1975 là đại thắng của đấu tranh chính nghĩa, đại thắng của khối đại đoàn kết toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, đại thắng của sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, trong đó, chiến lược quân sự cách mạng đúng đắn của Đảng là hạt nhân cốt lõi.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã và đang ra sức đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những thành tựu chung đã đạt được thì những thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Đặc biệt những thành tựu trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ và răn đe quân sự của các thế lực thù địch. Đó chính là thắng lợi của sự kế thừa, phát triển kinh nghiệm chống Mỹ kết hợp với quá trình không ngừng bổ sung, vận dụng sáng tạo chiến lược quân sự cách mạng của Đảng phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng, đưa sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Hiện nay cách mạng nước ta vẫn đã và đang phải đương đầu với những âm mưu và hành động chống phá mới của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Chiến lược “diễn biến hoà bình” kết hợp với âm mưu, thủ đoạn bạo loạn lật đổ và răn đe sử dụng sức mạnh quân sự bằng chiến tranh công nghệ cao của chúng đã và đang đặt ra yêu cầu mới rất cao đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Đảng, nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Những bài học thành công của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là những bài học thành công trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, tạo nên đại thắng mùa Xuân 1975 cần được phát triển, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thời kỳ mới.
Trên cơ sở đường lối đổi mới toàn diện, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị...”. Với chúng ta, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân đã trở thành một quy luật giành thắng lợi của cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã, đang và sẽ chống phá cách mạng nước ta trên mọi phương diện và bằng mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc. Nếu chúng ta không phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì sẽ không thắng nổi kẻ thù. Đồng thời, chúng ta cần nắm vững quan điểm đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, nhằm khai thác, phát huy đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng của từng yếu tố cấu thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, nhờ nắm vững quan điểm đấu tranh toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp nên chúng ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng và càng trưởng thành. Đó là một giá trị lớn cần được phát huy cao độ trong giai đoạn cách mạng mới của nước ta hiện nay.
Phạm Văn Phong
Khoa CTĐ-CTCT, Trường Đại học Chính trị