Ngày 28-3-1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất ra “Nghị quyết về đội tự vệ” được coi là ngày thành lập Dân quân tự vệ Việt Nam. Từ năm 1935 đến năm 1945, các đội tự vệ ở cả nông thôn và thành thị ra đời, làm nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh du kích, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa. Đội du kích Bắc Sơn sau đổi tên thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn được Trung ương Đảng trực tiếp thành lập và chỉ đạo ngay sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn; là đội quân vũ trang tuyên truyền của Đảng – một trong những đội vũ trang tiền thân của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Hoạt động của Đội du kích Bắc Sơn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, một trong những căn cứ địa chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Ngày 27-9-1940, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) diễn ra thắng lợi, là tiếng súng báo hiệu bước chuyển giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam: Từ đấu tranh chính trị tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếng vang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã thức tỉnh, lay động mạnh mẽ tinh thần và ý chí cách mạng của nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn và cả nước. Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc kỳ cử đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ lên Bắc Sơn nắm tình hình và tiếp tục chỉ đạo phong trào quần chúng cách mạng tại đây.
Trước tình hình thực dân Pháp huy động lực lượng ráo riết đàn áp cuộc khởi nghĩa và phong trào quần chúng cách mạng ở Bắc Sơn, ngày 29-10-1940, đồng chí Trần Đăng Ninh họp bàn với ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa, đề ra nhiệm vụ và biện pháp bảo toàn lực lượng, duy trì phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, đó là: Rút toàn bộ cán bộ, đảng viên đã bị lộ cùng du kích vào rừng sâu để tiến hành hoạt động bí mật; đối với cán bộ, đảng viên chưa bị lộ thì kiên trì bám chắc lấy quần chúng để củng cố và giữ vững cơ sở cách mạng ở các xã; gấp rút chuẩn bị để có thể chủ động chống cuộc khủng bố lớn của địch.
Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, Trung ương Đảng tổ chức họp bàn về vấn đề phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Sau khi nghe đồng chí Trần Đăng Ninh báo cáo tình hình, Trung ương Đảng quyết định duy trì lực lượng vũ trang, thành lập Đội du kích Bắc Sơn với các nhiệm vụ: dùng hình thức vũ trang công tác, khi cần thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ sinh mạng, tài sản của nhân dân; phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập căn cứ địa, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo. Đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng được giao trọng trách trực tiếp chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ do Trung ương Đảng đề ra.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho cuộc “bạo động cách mạng” giành chính quyền, cuối năm 1940, Xứ ủy Bắc kỳ phân công đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ trực tiếp chỉ đạo và mở lớp huấn luyện quân sự cho một số cán bộ cốt cán các tỉnh, thành thuộc Xứ ủy tại xã Thanh Vân, tổng Hoàng Vân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đồng thời, Xứ ủy Bắc kỳ chỉ đạo Đảng bộ Võ Nhai (Thái Nguyên) tăng cường lực lượng hỗ trợ cho lực lượng du kích Bắc Sơn hoạt động.
Tháng 1-1941, Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc kỳ phân công một số cán bộ tăng cường cho xây dựng phong trào cách mạng và củng cố Đội du kích Bắc Sơn. Đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ được Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc kỳ phân công làm Chỉ huy trưởng Đội du kích Bắc Sơn, trực tiếp chỉ đạo triển khai tăng cường củng cố, phát triển phong trào cách mạng, từng bước xây dựng, củng cố căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai; căn cứ của Đội du kích Bắc sơn được đặt tại khu rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, Châu Bắc Sơn. Sau khi được tăng cường lực lượng và trang bị thêm vũ khí, tại căn cứ Khuổi Nọi, Ban Chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn đã tổ chức các lớp huấn luyện quân sự cho các học viên được tuyển chọn từ các xã của châu Bắc Sơn (Lạng Sơn) và một số địa phương thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh. Từ các lớp huấn luyện quân sự tại căn cứ Khuổi Nọi, Ban Chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn tiếp tục tổ chức các lớp huấn luyện quân sự tại Phú Thượng, Lâu Thượng, Tràng Xá (Võ Nhai, Thái Nguyên). Nhiều xã ở châu Bắc Sơn và châu Võ Nhai đã có đội tự vệ được trang bị vũ khí, có đủ lương thực, thực phẩm, bảo đảm hoạt động dài ngày trong những đợt thực dân Pháp khủng bố.
Trên địa bàn Bắc Sơn và châu Võ Nhai, Đội du kích Bắc Sơn đã liên tiếp tiến hành các cuộc tập kích vũ trang, trừng trị bọn Việt gian ác ôn, tay sai của thực dân Pháp, làm cho chính quyền địch ở nhiều nơi lâm vào tình thế hoang mang, lo sợ, khích lệ tinh thần đấu tranh của đông đảo quần chúng cách mạng.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng, củng cố căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, Đội du kích Bắc Sơn đã tích cực tiến hành công tác tuyên truyền trên địa bàn, cùng với nhân dân duy trì sản xuất, đảm bảo lương thực, thực phẩm, mở rộng phạm vi hoạt động đến địa bàn các huyện Bình Gia, Bằng Mạc và Hữu Lũng, củng cố hệ thống cơ sở của Đảng và phát triển phong trào cách mạng trên địa bàn toàn tỉnh Lạng Sơn.
Tháng 2-1941, đoàn đại biểu Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh trên đường đi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng) đã dừng chân tại căn cứ Khuổi Nọi. Sau khi nắm tình hình về phong trào cách mạng và kết quả xây dựng, củng cố căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, Đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Bí thư Xứ ủy Bắc kỳ đã thông báo cho cán bộ, đảng viên và Đội du kích Bắc Sơn về quyết định của Trung ương, đổi tên Đội du kích Bắc Sơn thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn.
Ngày 14-2-1941, tại căn cứ Khuổi Nọi, Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn tổ chức lễ thành lập; Đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ được Trung ương chỉ định đảm nhiệm Chỉ huy trưởng, đồng chí Chu Văn Tấn, Chỉ huy phó. Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn khi mới thành lập gồm 32 cán bộ, chiến sĩ là con em đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã được giác ngộ cách mạng[i]. Tại lễ thành lập, đồng chí Hoàng Văn Thụ, thay mặt Trung ương Đảng giao nhiệm vụ cho Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn: Tích cực dùng hình thức vũ trang công tác, củng cố mở rộng căn cứ du kích, nhanh chóng phát triển lực lượng về mọi mặt để khi thời cơ đến, tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiệm vụ trước mắt của Đội Cứu quốc quân là để anh em các địa phương khác đến học tập. Đồng chí Hoàng Văn Thụ đã trao cho Đội Cứu quốc quân lá cờ đỏ sao vàng do Hội phụ nữ phản đế Hà Nội tặng, có thêu dòng chữ “Tặng du kích Bắc Sơn”.
Dưới lá cờ đỏ sao vàng thiêng liêng, đồng chí Lương Văn Tri, Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn tuyên đọc 5 lời thề danh dự của Đội Cứu quốc quân:
1- Không phản Đảng.
2- Tuyệt đối trung thành với Đảng.
3- Kiên quyết chiến đấu trả thù cho các đồng chí đã hy sinh.
4- Không hàng giặc.
5- Không hại dân.
Sau khi thành lập, Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn biên chế lại các tiểu đội, phân công cán bộ, chiến sĩ phụ trách các địa bàn, tăng cường hoạt động tuyên truyền, vận động, phát triển cơ sở quần chúng cách mạng, từng bước mở rộng khu căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Trung tâm căn cứ Khuổi Nọi được tăng cường bố trí lán trại, chuẩn bị thêm bãi tập để tiếp tục tổ chức các lớp huấn luyện quân sự, trang bị kiến thức cơ sở về quân sự cho lớp cán bộ quân sự đầu tiên của nhiều tỉnh, thành; phát hành bản tin “Du kích” làm tài liệu tuyên truyền. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941), đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng được Trung ương phân công đảm nhiệm Chỉ huy trưởng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai kiêm Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn. Đồng chí Lương Văn Tri giữ chức Chính trị viên Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn.
1. Danh sách các đội viên đầu tiên của Đội du kích Bắc Sơn: Lương Văn Tri, Chu Văn Tấn, Nguyễn Cao Đàm, Nguyễn Văn Phòng, Lương Đình Sơn, Lâm Thành Sơn, Mã Viết Vinh, Nguyễn Văn Thái, Hoàng Văn Khằm, Hoàng Tài, Lâm, Nông Thái Long, Nhì Phung, Dương Công Bình, Hoàng Văn Hán, Mã Viết Thốn, Dương Quốc Vinh, Đường Văn Thức, Đường Văn Tư, Hoàng Doãn Hoàng, Dương Thần Tần, Hoàng Đình Ruệ, Vẩn Sáng, Hắc Chấp, Hoàng Văn Thằng, Hà Khai Lạc, Bính, Nguyễn Văn Đắc, Bút, Hoàng Văn Thái, Bùi Sính, Nguyễn Văn Tiến.
Đình Anh