|
Các đại biểu tham dự Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (Lớp thứ nhất).
|
Đặc biệt, để chủ động tạo nguồn, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, Ban Bí thư khóa X đã giao Ban Tổ chức Trung ương chủ trì xây dựng Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước. Ngày 27-6-2008, Bộ Chính trị có Kết luận đồng ý chủ trương triển khai Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước (Đề án 165). Qua gần 15 năm thực hiện Đề án, đã tổ chức được một số lượng đáng kể cán bộ các cấp đi bồi dưỡng, đào tạo ở nước ngoài với nhiều chương trình ở nhiều quốc gia khác nhau, góp phần mở rộng tầm nhìn, nâng cao nhận thức, tăng cường kỹ năng lãnh đạo, quản lý, sự tự tin trong giao tiếp đối ngoại.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Việc đổi mới tư duy về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn chậm; nội dung, phương pháp còn lạc hậu, rập khuôn; chưa chú trọng nghiên cứu, chắt lọc, vận dựng những kinh nghiệm quý, cách làm hay của các nước trên thế giới, nhất là những nước có nền giáo dục phát triển. Đội ngũ cán bộ tuy được đào tạo, bồi dưỡng tương đối công phu, nghiêm túc với các hình thức khác nhau nhưng một bộ phận vẫn chưa phát huy được năng lực, hiệu quả công tác trong thực tiễn; tình trạng cán bộ đông nhưng chưa mạnh, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu xảy ra ở nhiều nơi. Cơ cấu lĩnh vực chuyên môn và kỹ năng được đào tạo chưa thực sự hợp lý, “nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và năng lực làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế” như Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII đã chỉ rõ.
Hiện nay, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta bước sang giai đoạn mới với nhiều thời cơ, thuận lợi và không ít khó khăn, thách thức đan xen. Đất nước đang đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao, đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao sâu rộng với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện; trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, gia nhập nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; có không gian quốc tế thuận lợi, đủ tiền đề và dư địa cần thiết để củng cố, nâng cao vị thế ở khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế số, kinh tế tri thức, sự phát triển của in-tơ-nét, mạng xã hội, vấn đề môi trường, đại dịch và biến đổi khí hậu toàn cầu đặt ra nhiều thách thức. Trong khi đó, trình độ, năng lực, nhất là năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ các cấp còn nhiều hạn chế. Đất nước còn thiếu một đội ngũ cán bộ giỏi, luật sư giỏi, chuyên gia giỏi, thông thạo luật pháp quốc tế, có trình độ ngoại ngữ, có kỹ năng đàm phán và giao tiếp quốc tế để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế, nhất là về giáo dục, khoa học, công nghệ, kinh tế, thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài...
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, trong những nhiệm kỳ vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, quy định, kết luận nhằm tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã phát huy vai trò, trách nhiệm, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các nghị quyết, quy định, kết luận trên.
Ngoài ra, lần đầu tiên, Đảng đề ra các chỉ tiêu về xây dựng năng lực làm việc trong môi trường quốc tế đối với cán bộ tại Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII về xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo đó, đến năm 2030 phải có 40 - 50% cán bộ cấp chiến lược; 50 - 60% cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương; 20 - 30% cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an; 25 - 35% cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương; 70 - 80% cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Để thực hiện các mục tiêu trên đây, cần phải có các nhóm giải pháp đồng bộ như xây dựng kế hoạch, chương trình hành động; có lộ trình cụ thể để tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đi vào nền nếp, nhất quán từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng chất lượng, hiệu quả”. “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế”, “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế”. Muốn vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu các cấp cần tiếp tục chăm lo hơn nữa đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; căn cứ tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị để xây dựng kế hoạch, chương trình hành động; có lộ trình cụ thể để tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, đạt hiệu quả cao. Cần tiếp tục thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ, nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất, lãnh đạo, chỉ đạo đối với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hội nhập quốc tế
(1) Xác định rõ chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để họ nâng cao trình độ, rèn luyện kỹ năng phù hợp, thích ứng với môi trường quốc tế, đặc biệt đối với các cơ quan, đơn vị, địa phương có yêu cầu cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế như mục tiêu nêu trên. Người đứng đầu chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, chuẩn nguồn nhân lực để đào tạo, bồi dưỡng theo lộ trình. Đồng thời, người đứng đầu phải nêu gương về nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, như thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, đạo đức, tri thức chuyên môn, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học, phương pháp và phong cách làm việc và các kỹ năng hội nhập.
(2) Quan tâm tạo nguồn cán bộ trẻ cho đào tạo, bồi dưỡng các khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Tính tới năm 2030, lực lượng sinh viên, cán bộ trẻ là nguồn nhân lực chất lượng cần được tuyển dụng, phát triển để xây dựng thành công đội ngũ cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Quy hoạch dài hạn những cán bộ trẻ, có năng lực từ các nguồn khác nhau trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội. Đầu tư cho các nguồn nhân lực này về giáo dục, đào tạo trong các trường lớp chính quy, rèn luyện qua thực tiễn phong phú. Quan tâm xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng những sinh viên tốt nghiệp loại xuất sắc, những trí thức, nhà khoa học, doanh nhân giỏi trong và ngoài nước vào làm việc trong các cơ quan hệ thống chính trị Việt Nam.
(3) Nhận thức đầy đủ và toàn diện về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tham mưu cho lãnh đạo xây dựng chiến lược, phương án tiến hành, bước đi, lộ trình phù hợp bảo đảm hiệu quả và đạt mục tiêu. Cần lựa chọn đúng đối tượng đào tạo, bồi dưỡng, xác định rõ mức độ, yêu cầu, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế cho từng nhóm đối tượng cán bộ ở các cơ quan, đơn vị Trung ương và địa phương.
|
Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chụp ảnh cùng các đại biểu của Lớp thứ nhất.
|
Thứ hai, rà soát, đánh giá lại toàn bộ đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ cấp cao và những người trực tiếp làm công tác liên quan hội nhập quốc tế
Để có thể đưa ra các giải pháp phù hợp tiếp theo nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế thì việc đầu tiên là các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để rà soát, đánh giá lại toàn bộ đội ngũ cán bộ hiện có.
Mỗi cấp, ngành, cơ quan, đơn vị sẽ nắm được mình cần bao nhiêu cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, những yêu cầu cụ thể về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, trình độ tin học, ngoại ngữ cần thiết để làm việc trong môi trường quốc tế. Lãnh đạo tổ chức rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ hiện tại. Trên cơ sở so sánh nhu cầu cần thiết và thực trạng đội ngũ cán bộ của ngành mình, cấp mình, tổ chức, đơn vị mình để tổng kết xem cần đào tạo, bồi dưỡng thêm bao nhiêu người, nội dung đào tạo, bồi dưỡng những gì. Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ nên là cơ quan chủ trì, tập hợp nhu cầu đào tạo của các cấp, các ngành trên cả nước
Thứ ba, hoàn thiện chủ trương, chính sách liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
(1) Tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với tình hình mới. Phải lấy đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm trọng tâm. Trong đào tạo, bồi dưỡng không chỉ chú ý đến bồi dưỡng về chính trị mà phải đặc biệt chú ý đến chất lượng chuyên môn, phải có kế hoạch xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên gia giỏi trên nhiều lĩnh vực, đồng thời có ý thức chính trị cao, có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
(2) Cần nghiên cứu xây dựng khung năng lực cho cán bộ, công chức làm việc trong môi trường quốc tế, cần có sự phân biệt rõ giữa cán bộ, công chức chủ chốt với cán bộ, công chức thuộc diện tạo nguồn, kế cận. Với yêu cầu/tiêu chuẩn cứng, cần lưu ý các tiêu chuẩn về chuyên môn và phẩm chất chính trị. Ngoài ra, với yêu cầu/tiêu chuẩn mềm, trình độ ngoại ngữ và kỹ năng đủ tốt để làm việc trong môi trường quốc tế là những nội dung nổi bật.
(3) Cần có chính sách sử dụng cán bộ, xây dựng môi trường làm việc tốt, đãi ngộ thỏa đáng. Bên cạnh đào tạo, bồi dưỡng thì chính sách đánh giá, sử dụng cán bộ cũng có tác động rất lớn đến việc hình thành đội ngũ cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Làm tốt công tác luân chuyển, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức trưởng thành trong thực tiễn. Những môi trường, điều kiện làm việc khác nhau ở cơ sở sẽ giúp cho cán bộ, công chức phát huy được năng lực, sức sáng tạo. Đồng thời, tránh được tình trạng xa rời thực tiễn, nhất là với những cán bộ, công chức sau đó công tác ở các cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách. Cần có cơ chế, chính sách đặc thù nhằm khuyến khích, động viên và giữ nguồn nhân lực chất lượng cao, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám trước sự cạnh tranh và sức hấp dẫn ngày càng lớn của các công ty, doanh nghiệp nước ngoài và khu vực tư nhân.
(4) Khuyến khích ý thức tự học, tự vươn lên của bản thân cán bộ. Bên cạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ thì mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị cần xây dựng ý thức tự giác, trách nhiệm cao trong việc tự học, tự nghiên cứu, tích lũy tri thức và kỹ năng để sẵn sàng làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ.
(5) Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, liên thông. Hoàn thiện các quy định nhằm đẩy mạnh phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tạo ra sự năng động, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng cán bộ và cơ sở đào tạo.
|
Cần rà soát, đánh giá lại toàn bộ đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ cấp cao và những người trực tiếp làm công tác liên quan hội nhập quốc tế.
|
Thứ tư, lựa chọn các nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp
(1) Đẩy mạnh chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới và kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế cho đội ngũ cán bộ. Tăng cường trang bị, bổ sung kiến thức mới phù hợp từng nhóm đối tượng, gắn với tiêu chuẩn chức danh, khung năng lực và vị trí việc làm.
(2) Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Làm tốt việc rà soát, cập nhật nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; rà soát, đánh giá chất lượng các chương trình hiện hành, bảo đảm tính khoa học, tính ứng dụng của các chương trình. Xây dựng nội dung, chương trình, phương pháp, thời gian đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chọn lọc, thiết thực, phù hợp với từng loại chức danh cán bộ; chú trọng hơn về phương pháp luận, tính định hướng, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, kỹ năng công tác và phong cách lãnh đạo, quản lý. Nội dung chương trình cần bảo đảm cập nhật tri thức mới, đồng thời trau dồi kỹ năng nghiệp vụ. Chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về những vấn đề mới trong đường lối của Đảng, chính sách mới của Nhà nước trên các lĩnh vực; những vấn đề thực tiễn mới trong lãnh đạo, quản lý; trang bị tri thức chuyên môn, pháp luật quốc tế thuộc lĩnh vực công tác; rèn luyện phương pháp làm việc khoa học, tác phong chuyên nghiệp, chuẩn mực ứng xử, kỹ năng đàm phán, giao tiếp quốc tế.
(3) Đổi mới, đa dạng nội dung và phương thức đào tạo, bồi dưỡng công chức đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế. Cần có các chương trình bồi dưỡng trong lĩnh vực đối ngoại dành cho cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược (có thể được điều chỉnh theo các giai đoạn khác nhau). Trong chương trình dành cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược, việc trang bị một hệ thống từ lý luận đến kiến thức quan hệ quốc tế, kiến thức đối ngoại, nghiệp vụ ngoại giao cần được bổ sung. Việc xây dựng một chương trình bồi dưỡng riêng về đối ngoại là một giải pháp quan trọng và cấp bách. Một số nhóm nội dung có thể được xem xét triển khai trong chương trình bồi dưỡng về đối ngoại và quan hệ quốc tế, như hệ thống lý luận quan hệ quốc tế, kỹ năng hoạch định và phân tích chiến lược, các nghiệp vụ và kỹ năng cần thiết đặt ra từ yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế. Bên cạnh đó, cần có các chương trình bồi dưỡng kiến thức cơ bản về toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế, nghiệp vụ ngoại giao cơ bản, kiến thức về văn hóa, lịch sử của các dân tộc, quốc gia trên thế giới, phương pháp, phong cách đối thoại, đàm phán, kỹ năng ứng xử, thuyết trình…
Theo kinh nghiệm quốc tế, các nước có nền hành chính công phát triển cao như Xin-ga-po, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Pháp... đều rất coi trọng phương pháp thực tiễn hoá chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Cách tiếp cận này “rèn luyện cho cán bộ, công chức có tư duy sáng tạo, tìm tòi, óc phán đoán trong việc vận dụng những kiến thức của mình vào việc xem xét, đánh giá vấn đề cần được giải quyết”. Như đã ghi nhận ở Pháp, hiệu quả học tập, bồi dưỡng được cải thiện rõ rệt khi “giảng viên thường tái hiện lại các tình huống mà họ đã và đang xử lý trong thực tế, từ đó yêu cầu học viên làm việc nhóm để thảo luận về cách thức xử lý”.
Chương trình và nội dung đào tạo cũng nên được bổ sung, hoàn thiện từ kinh nghiệm của những nhà chính trị và hoạt động thực tiễn uy tín. Những kỹ năng về làm việc nhóm và tranh biện, tranh luận cũng rất cần được bổ sung rõ nét hơn bởi chúng không chỉ củng cố, hoàn thiện năng lực cho người học mà còn rất phù hợp với đặc điểm của môi trường quốc tế, nơi hợp tác và xung đột cùng tồn tại và đan xen vào nhau hết sức phức tạp.
(4) Nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học đối với cán bộ. Triển khai thực hiện tốt Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức. Rà soát thực trạng năng lực, trình độ và tổng hợp nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương để làm căn cứ xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ theo từng nhóm đối tượng, từng lĩnh vực công tác, từng vị trí việc làm một cách phù hợp. Đưa việc đào tạo, bồi dưỡng, học tập ngoại ngữ thành hoạt động thường xuyên ở từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị; tạo chuyển biến căn bản về trình độ ngoại ngữ của cán bộ; gắn việc học ngoại ngữ đi đôi với thực hành, sử dụng ngoại ngữ thường xuyên, hiệu quả. Thực hiện kiểm tra, đánh giá năng lực trong đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ theo tiếp cận chuẩn quốc tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, huy động nguồn lực, phát triển các cơ sở đào tạo uy tín để tăng cường đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ cho cán bộ. Tăng cường đào tạo tin học, bổ sung kiến thức về công nghệ thông tin cho cán bộ và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành.
Từ kinh nghiệm của một số nước, các chương trình, hoạt động trên cần được bổ sung, phát triển theo hướng gia tăng sự hợp tác chặt chẽ của các đối tác nước ngoài một cách phù hợp. Cụ thể hơn, tương tự với mạng lưới hợp tác ba bên Nhật Bản - Trung Quốc - Hàn Quốc, việc thiết lập một số mạng lưới, sáng kiến hợp tác giữa các cơ sở tại Việt Nam với những cơ sở tương tự trên thế giới, trước hết là tại khu vực Đông Nam Á hoặc gần hơn nữa là giữa ba nước Việt Nam - Lào - Căm-pu-chia, có thể giúp nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, công chức Việt Nam trong môi trường quốc tế.
Thứ năm, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng thiết thực, hiệu quả
(1) Triển khai có hiệu quả các đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài; tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo các chương trình hợp tác đào tạo đã ký kết. Rà soát, xây dựng các khung chương trình bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài phù hợp với từng đối tượng, chuyên môn và lĩnh vực công tác.
(2) Phân loại đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Từ kinh nghiệm của một số quốc gia OECD, việc phân loại đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là khâu quan trọng đầu tiên trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng hội nhập. Cần phải tiến hành khảo sát nhu cầu học tập của công chức, để tránh lãng phí thời gian và tiền bạc của cả cá nhân và Nhà nước cũng như tạo động lực học tập cho công chức.
(3) Kiện toàn hệ thống cơ sở đào tạo, đội ngũ giảng viên làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Kiện toàn hệ thống trường đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy mô, hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Thu hút và tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo có đủ năng lực tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ hoạt động dạy và học; hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật, đặc biệt hạ tầng công nghệ thông tin, bảo đảm cơ sở đào tạo đủ điều kiện, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xây dựng, thực hiện kế hoạch đào tạo, kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng. Thu hút và đa dạng hóa nguồn kinh phí cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng gắn với đổi mới cơ chế phân bổ và tự chủ tài chính trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách cho đội ngũ giảng viên.
(4) Đổi mới đội ngũ giảng viên làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Cần kết hợp giữa đội ngũ giảng viên thỉnh giảng và đội ngũ giảng viên cơ hữu trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đội ngũ giảng viên thỉnh giảng bao gồm các chuyên gia, nhà quản lý là những chủ thể có khả năng cung cấp nhiều kiến thức chuyên sâu và những kinh nghiệm quản lý cho cán bộ, công chức. Đội ngũ giảng viên cơ hữu là những người có kiến thức nền tảng chuyên sâu và đã gắn bó lâu dài với quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Do đó, sự kết hợp giữa hai đội ngũ giảng viên này sẽ cung cấp cho cán bộ, công chức những kiến thức lý luận và kiến thức thực tiễn phong phú, hài hòa hơn, là yếu tố then chốt để phát triển năng lực cho họ.
Việt Nam cũng cần xây dựng bộ tiêu chí phù hợp hơn nhằm đảm bảo chất lượng, đánh giá chất lượng công chức sau đào tạo, bồi dưỡng. Đây là một việc làm có ý nghĩa quan trọng. Trong vấn đề này, cần chú ý kinh nghiệm của Pháp, Xin-ga-po, theo đó, chất lượng công chức không được quyết định bởi bằng cấp đào tạo, mà chủ yếu bởi năng lực thực hiện công việc thực tế.
|
Ban Tổ chức Trung ương phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Nam tổ chức Hội thảo khoa học đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
|
(5) Đổi mới phương pháp dạy và học trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Theo đó, chuyển từ “dạy” sang hướng dẫn; từ nghe và tiếp thu một cách thụ động sang tự học; chủ yếu là hướng dẫn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm công tác, cùng nhau bàn bạc, thảo luận để tìm ra biện pháp giải quyết tối ưu một vấn đề nào đó đang được đặt ra.
Tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến thông qua “lớp học ảo”, mô phỏng, số hóa bài giảng cần trở thành xu hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong tương lai gần. Ở nhiều quốc gia, đào tạo trực tuyến thường mang lại hiệu quả cao gấp nhiều lần so với đào tạo thông thường, do học viên hoàn toàn tự nguyện tham gia và giảng viên buộc phải chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc hơn trong thiết kế bài giảng; tăng cường cơ hội cho học viên được tiếp cận với các giảng viên có năng lực, trình độ cao.
(6) Thường xuyên xem xét, đánh giá lại các chương trình bồi dưỡng cả về nội dung và phương thức truyền tải để đảm bảo chất lượng đầu ra của quá trình bồi dưỡng hội nhập quốc tế phù hợp và đáp ứng những nhu cầu và ưu tiên hiện tại và tương lai của chính phủ và công chức.
Đổi mới công tác đánh giá kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Đánh giá chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần tập trung vào đánh giá “đầu ra”, nhất là kết quả cuối cùng của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Việc đánh giá mức độ sử dụng “đầu ra” của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải chủ yếu dựa trên các chỉ số về kết quả giải quyết công việc, mức độ đáp ứng yêu cầu công việc của cán bộ, công chức sau khi được đào tạo, bồi dưỡng. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sẽ đánh giá thông qua việc phỏng vấn trực tiếp học viên sau khi kết thúc khóa đào tạo, bồi dưỡng từ 3 tháng đến 6 tháng và ý kiến phản hồi của chính cơ quan đang sử dụng cán bộ, công chức. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cũng có thể yêu cầu học viên xây dựng bản kế hoạch hành động, trong đó đưa ra kế hoạch cụ thể về việc áp dụng những gì đã học vào thực tế công việc.
Thứ sáu, sự phối hợp của các cơ quan liên quan
Trước tiên, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể để triển khai hiệu quả chủ trương của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Các cơ sở đào tạo phải xây dựng những nội dung chương trình đáp ứng nhu cầu người học theo mục tiêu rõ ràng, thỏa mãn yêu cầu công tác cán bộ của cơ quan, đơn vị, địa phương.
Cần sự phối hợp thống nhất, đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở. Sự kết hợp của các bộ, ban, ngành và các địa phương trong việc tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng để tránh trùng lắp và lãng phí nguồn lực. Một số tỉnh, thành phố sử dụng kinh phí của địa phương để cử cán bộ đi đào tạo ở các cơ sở đào tạo nước ngoài.Nhiều cơ sở đào tạo trong nước liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài để đào tạo đại học, sau đại học...Tất cả những phối hợp, hợp tác đã tạo điều kiện và thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế ở Việt Nam.
Trong thời gian tới, công tác đào tạo cán bộ cần chú trọng đến nội dung nâng cao chất lượng (bao gồm cả năng lực và phẩm chất) đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế; coi đây là một nội dung quan trọng, cần được thực hiện theo một kế hoạch dài hạn, bài bản, có tính tổng thể. Cán bộ các đơn vị, địa phương có liên quan được đào tạo theo nhu cầu của công việc và được tập trung vào các khóa đào tạo chuyên đề nhất định. Họ không chỉ được học tập để mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ kiến thức về ngoại giao, quan hệ quốc tế, mà còn phải được đào tạo về kỹ năng và nghiệp vụ của lĩnh vực công tác này.Các cơ sở đào tạo có liên quan cần kịp thời biên soạn tài liệu giảng dạy phù hợp để bồi dưỡng cho giáo viên tham gia giảng dạy về lĩnh vực này.
Đồng thời, đội ngũ cán bộ cần chủ động, tự giác hơn nữa trong học tập; tích cực tích lũy và đúc kết kinh nghiệm trong công việc; nâng cao năng lực tư duy và khả năng nắm bắt, tiếp cận kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn. Cùng với đó, cần áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để tăng cường nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề quốc tế và trau dồi phẩm chất quốc tế, nhằm không ngừng nâng cao khả năng giao lưu với cộng đồng quốc tế.
Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nước ngoài cho hệ thống chính trị trong cả nước. Cục Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện Kết luận số 39 của Bộ Chính trị về chủ trương bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ ngành, địa phương trong việc tuyển chọn cán bộ tham gia bồi dưỡng trung hạn, ngắn hạn và ngoại ngữ từ nay tới năm 2030. Việc đào tạo nguồn cán bộ này gắn với nhu cầu nâng cao và hoàn thiện chất lượng công việc của cơ quan, đơn vị nói riêng và định hướng phát triển đất nước nói chung. Hơn nữa, kế hoạch đào tạo cần gắn kết chặt chẽ với kế hoạch sử dụng và phát triển cán bộ, từ đó, tạo cho họ có được môi trường, “sân chơi” tốt nhất để phát huy năng lực và kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy được trong môi trường quốc tế, phục vụ cho cơ quan, đơn vị, địa phương và quốc gia.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Cần kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở trong nước và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước ngoài. Từ kinh nghiệm của các quốc gia OECD cho thấy, trao đổi và hợp tác quốc tế là hoạt động đặc biệt quan trọng để công chức thực sự có những trải nghiệm trong môi trường quốc tế. Hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng công chức được tiến hành trên nhiều hình thức như: cử công chức tham gia các khóa học, tập huấn, tập sự, hội thảo ở nước ngoài. Đồng thời, mời các giảng viên từ nước ngoài giảng dạy và trao đổi kinh nghiệm trong các chường trình bồi dưỡng hội nhập. Hình thành mạng lưới hợp tác giữa các quốc gia, các trường đại học trong nước và quốc tế để phối hợp, trao đổi, hợp tác, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm.
Chú trọng thu hút nguồn lực phát triển từ các tổ chức quốc tế và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo cơ hội cho cán bộ có điều kiện được nghiên cứu, học tập và làm quen với môi trường làm việc quốc tế.
Thông qua hợp tác quốc tế, cán bộ các cấp được học tập, trải nghiệm trong môi trường quốc tế nhằm nâng cao khả năng thích ứng với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Việc mở rộng giao lưu quốc tế, trong đội ngũ cán bộ của Việt Nam ngày càng có nhiều người đi đến nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới để làm việc, trao đổi, học tập trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, như chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ...; từ đó, năng lực làm việc của họ với đối tác nước ngoài cũng được cải thiện đáng kể;nâng cao khả năng xử lý, ứng phó với các tình huống quốc tế và các vấn đề quốc tế.
Hơn nữa, mở rộng các “kênh” trao đổi, hợp tác đào tạo giữa Việt Nam và các quốc gia, tổ chức quốc tế, tích cực phát triển hợp tác thực chất với các cơ sở đào tạo hoặc các đối tác nước ngoài trong các lĩnh vực và tìm kiếm các chương trình hợp tác đào tạo với nước ngoài cho cán bộ Việt Nam. Trên cơ sở các chương trình, dự án đào tạo hiện có, tập trung mở rộng mô hình hợp tác dự án đào tạo và lĩnh vực hợp tác đào tạo; đồng thời, tích cực xây dựng hệ thống đào tạo cán bộ học tập hoặc làm việc tại nước ngoài. Mở rộng hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trên toàn cầu để tranh thủ nguồn nhân lực, vật lực phục vụ đào tạo nhân lực Việt Nam đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, thông qua cấp học bổng, tài trợ dự án phát triển, nghiên cứu, trao đổi seminar, hội thảo...
Bên cạnh đó, cần huy động có hiệu quả sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đối với sự phát triển đất nước, trước hết, cần quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời kỳ mới. Trong đó, chú trọng quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về việc thu hút, sử dụng chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thiết yếu, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Quy định số 164-QĐ/TW ngày 1-2-2013 về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 57-KL/TW ngày 8-3-2013 về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; Kết luận số 117-KL/TW ngày 20-11-2015 về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Kết luận số 39 ngày 18-7-2022 của Bộ Chính trị về chủ trương bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước...
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo tổ chức 2 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho 181 Ủy viên Trung ương Đảng, 1 lớp cho Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng; 5 lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho 222 cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tổ chức được 6.582 lớp đào tạo, bồi dưỡng cho 590.601 lượt cán bộ, đảng viên về lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ; 40.217 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho 4.530.676 lượt học viên.
Nguyễn Hùng Cường
Cục Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương