Là con một liệt sỹ du kích nhưng Vũ Tiến Đề vẫn nằng nặc xung phong vào bộ đội. Song, vào những năm 1959, 1960 yêu cầu sức khoẻ vào bộ đội rất cao nên Vũ Tiến Đề bị loại vì không đủ tiêu chuẩn. Không được đi bộ đội, anh xin đi TNXP. Vào được TNXP cũng không phải dễ. Anh cuốc bộ lên tận huyện xin đi. Tháng 3-1959, Vũ Tiến Đề cùng với 400 thanh niên Thái Bình tham gia lực lượng TNXP xây dựng CNXH, mở tuyến đường 12 Hòa Bình. Anh được biên chế vào C201, doanh trại đóng ở chân dốc Cun, Hòa Bình. Nơi đây thường xuyên mây mù che phủ, trời nắng thì không có nước, nhưng khi mưa, nước ở xung quanh đổ xuống mênh mông như biển hồ. Lo nhất của chỉ huy đơn vị lúc này là bữa ăn, nước sinh hoạt hằng ngày. Trước tình hình đó, Vũ Tiến Đề xung phong đảm nhiệm công việc khó khăn, vất vả, nặng nhọc này. Hằng ngày phải lo việc chợ búa, cơm nước cho anh em đơn vị. Mua thực phẩm, mắm muối đều phải vượt hàng chục cây số đèo cao, suối sâu ra thị xã Hòa Bình hoặc phải lặn lội vào bản xa. Để có nước dùng cho đơn vị, Vũ Tiến Đề phải vượt dốc cao đi tìm từng gánh nước. Gần một năm trời mặc cho nắng lửa, mưa trơn, bằng đôi chân và chiếc đòn gánh, Vũ Tiến Đề đã đi hàng ngàn cây số để đảm bảo bữa ăn, nước dùng hàng ngày của đơn vị, góp phần đưa quân số lao động trên công trường của C201 lúc nào cũng ở mức cao và bếp ăn của C201 được công nhận “Bếp ăn kiểu mẫu”. Vũ Tiến Đề được tặng huy hiệu thanh niên tích cực lao động XHCN.
Sau hơn một năm, Vũ Tiến Đề được chọn đi học lớp lái xe và máy của Bộ Giao thông vận tải do chuyên gia Liên Xô giảng dạy. Học xong, anh lên Tây Bắc tham gia mở tuyến đường Mộc Châu - Điện Biên. Tháng 3-1965, Vũ Tiến Đề là 1 trong 6 TNXP được Bộ Giao thông vận tải điều động tới Thái Nguyên tiếp nhận một số xe, máy chuyên dụng để làm đường. Trong một tuần các anh đã tháo xong 4 chiếc xe ủi T100, xếp vào 16 xe tải rồi đưa vào Trường Sơn. Dọc đường đoàn xe bị máy bay địch đánh phá nên khi tới Khăm Muộn (Lào) thì dồn lại còn 3 chiếc. Đây là những chiếc xe máy ủi đầu tiên của Bộ Giao thông vận tải tham gia làm đường 128 thuộc hệ thống đường Hồ Chí Minh. Hoàn thành đường 12,8 những chiếc xe, máy ủi lại tham gia mở đường 20 phá thế độc tuyến trên đường vận tải Bắc - Nam, sau đó lại sát nhập vào Binh trạm 14 bảo vệ đoạn đường 20 từ km 65 đến km 83 quen gọi là "ATP".
Những năm tháng trên tuyến lửa đường Trường Sơn, Vũ Tiến Đề đã làm việc quên mình, bất chấp nguy hiểm, hy sinh, kiên cường bám trụ ở các trọng điểm cùng với đồng đội san lấp hàng ngàn hố bom, đảm bảo cho mạch máu giao thông thông suốt để xe pháo vào Nam chiến đấu. Những trường hợp hiểm nguy nhất, Vũ Tiến Đề thường nhận về mình.
Có lần, một mình anh dùng xe ủi đẩy 30 quả bom nổ chậm nằm ở mặt đường xuống vực sâu, góp phần quan trọng giải phóng mặt đường vào những thời điểm khẩn trương ác liệt nhất. Lần khác, Vũ Tiến Đề đã dùng xe xích kéo 70 xe pháo bị sa lầy nằm ở mặt đường thoát khỏi sự đánh phá của máy bay Mỹ. Vũ Tiến Đề đã 6 lần bị bom vùi, đất lấp, may mà được đồng đội kịp thời cấp cứu. Khi sức khỏe tạm hồi phục, Đề lại xin chỉ huy tiếp tục đi làm nhiệm vụ. Đề nói : “Còn người còn xe. Tôi quyết không để xe pháo phải chờ đường”.
"ATP" là đoạn đường hiểm trở, một bên là vách ta-luy đá tai mèo chênh vênh, một bên là thung lũng sâu thẳm, là "túi bom" trọng điểm địch tập trung đánh phá bất kể ngày đêm, hòng chặn đứt "mạch máu 20" - mạch máu chiến lược của hậu phương lớn nối với tiền tuyến lớn. Suốt những năm 1966, 1967, 1968, 1969, Vũ Tiến Đề cùng chiếc xe ủi "không số" dưới "mưa bom bão đạn" đã san ủi hàng vạn khối đất đá mở đường, cứu đường, thông đường trên những bãi bom mìn hiện đại nhất thế kỷ, góp phần giữ liền mạch máu giao thông.
Lần ấy, địch cho B52, máy bay tiêm kích tập trung đánh phá dữ dội vào đèo Phu-la-nhích. Mặt đường ùn tắc bởi khoảng 500m3 đá lớn. Lệnh của binh trạm bằng mọi giá phải thông đường cho 2 tiểu đoàn xe 52 và 781 vào chiến trường. Chập tối, Vũ Tiến Đề nổ máy lên đồi, khi xe đang đẩy những ben đá đầy xuống vực thì lũ máy bay C130 từ Lùm-bùm về phát hiện được liền gọi máy bay AD4 đến đánh. Vũ Tiến Đề cùng binh trạm trưởng Hoàng Trá phải chui vào gầm xe. Bom ầm ầm trên đầu, đất đá tung toé. Hết đợt oanh tạc Vũ Tiến Đề lại tiếp tục công việc. Bỗng có tiếng súng báo hiệu B52, thủ trưởng binh trạm lệnh cho tất cả vào hầm trú ẩn, Đề nói với Binh trạm trưởng: "Thủ trưởng cho tôi làm nốt hố bom này, chưa chắc địch đã đánh ở đây, mà có đánh thì chưa chắc đã trúng". Vừa dứt lời, bom đã chíu chíu trên đầu, một quả bom rơi trúng ta-luy. Sau 3 loạt bom, Đề lại cùng chiếc máy ủi khẩn trương gạt đất đá. Mấy chục phút sau, đường đã thông, hai tiểu đoàn xe chở đầy súng đạn, lương thực chi viện cho miền Nam, từ các ngách ào ào vượt qua trọng điểm... Vũ Tiến đề cười nói với đồng đội: “Dù tôi có phải ngậm cỏ xanh cũng xin ở lại làm tròn nhiệm vụ, sống chết với anh chị em TNXP”.
Tháng 5-1968, tại ngầm Ta Lê có 6 hố bom sâu chưa san lấp được, địch lại đánh phá liên tục, phía sau, xe bị ùn tắc nhiều. Mệnh lệnh lúc này là: bằng mọi giá, với mọi lực lượng phải khẩn trương san lấp giải phóng mặt đường cho xe thông tuyến. Vũ Tiến Đề đã xung phong nhận nhiệm vụ. 12 giờ liên tục, với tinh thần tất cả cho miền Nam đánh thắng, Vũ Tiến Đề đã quên ăn quên nghỉ, không sợ nguy hiểm hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Vũ Tiến Đề đã là người đầu tiên đưa xe ủi lên Trường Sơn để phá bom nổ chậm, tạo lên kỳ tích anh hùng trên mặt trận giao thông vận tải. Vũ Tiến Đề là Chiến sỹ thi đua quyết thắng toàn quân 5 năm liền, được tặng thưởng 4 Huân chương Chiến công. Một vinh dự lớn, ngày 22-12-1969 anh được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Anh hùng Vũ Tiến Đề không còn nữa, nhưng câu nói bất hủ của anh: "Thân tôi dù nát đường này phải thông" sẽ còn mãi trong những trang sử vàng chói lọi của TNXP Việt Nam, với con đường Hồ Chí Minh lịch sử, với núi rừng huyền thoại Trường Sơn.
Lã Quý Hưng