Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời - Đòi hỏi tất yếu của cách mạng Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng phát triển và trưởng thành.

Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới, quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 - 12 - 1944.

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, quân đội ra đời gắn với sự xuất hiện của nhà nước, là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Trung thành với học thuyết Mác - Lênin, vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2 - 1930), Đảng ta chỉ rõ: “Đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, xây dựng chính phủ công nông binh, “tổ chức ra quân đội công nông”.  Luận cương tháng 10 - 1930 của Đảng một lần nữa khẳng định: “Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh”. Về quân sự: “Mục đích của Đảng là lãnh đạo quần chúng võ trang bạo động. Vậy ngay từ bây giờ Đảng phải tổ chức bộ quân sự của Đảng để làm cho đảng viên được quân sự huấn luyện; giúp cho công nông hội tổ chức đội tự vệ”.

Cùng với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan điểm trên là cơ sở lý luận và phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng giai đoạn 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, là cơ sở thực tiễn vững chắc hình thành đường lối quân sự của Đảng. Trong thực tiễn đấu tranh đó, nhiều Đội tự vệ Công nông (Tự vệ đỏ) với vũ khí thô sơ và một số vũ khí cướp được của địch đã ra đời, với nhiệm vụ chống địch khủng bố và bảo vệ chính quyền Xô viết những nơi mới thành lập. Tuy nhiên, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã bị thực dân Pháp tàn sát, khủng bố hết sức dã man. Trước tình hình đó, để bảo vệ quần chúng, giữ vững khí thế đấu tranh, tháng 1 - 1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các xứ uỷ bốn công tác cần kíp phải làm ngay, trong đó nhấn mạnh: “Một vấn đề rất quan trọng cho sự đấu tranh của quần chúng công nông bây giờ là vấn đề tổ chức Đội tự vệ của Công nông... Các đảng bộ phải góp sức với Công, Nông hội mà hết sức hô hào cổ động thiệt rộng trong quần chúng ý nghĩa và sự lợi ích của đội tự vệ, đem những phần tử hăng hái tranh đấu, can đảm... tổ chức ra những đội ấy... Đội tự vệ không phải tổ chức trong một lúc tranh đấu rồi giải tán đi, mà phải duy trì khuếch trương ra làm một lực lượng vĩnh viễn của quần chúng”.


Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, nhiều đảng bộ ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Trung Kỳ đã tuyên truyền, giải thích cho quần chúng về ý nghĩa, mục đích của việc thành lập đội tự vệ, chọn những phần tử ưu tú, có tinh thần hăng hái, can đảm, có sức khoẻ trong Nông hội, Đoàn Thanh niên Cộng sản để lập ra đội tự vệ và quân số các đội tự vệ tăng lên nhanh chóng. 
“Những đội tự vệ đỏ ấy là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng của dân, vì dân do Đảng lãnh đạo”. Tháng 3 - 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng, họp tại Ma Cao, Trung Quốc, cùng với nghị quyết về những vấn đề thuộc đường lối cách mạng, Đại hội có nghị quyết riêng về Đội tự vệ. Nghị quyết nêu rõ mục đích: “Ủng hộ quần chúng hằng ngày; ủng hộ quần chúng trong các cuộc tranh đấu; ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công nông; quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng. Chống quân thù giai cấp tấn công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi”. Đồng thời, nhấn mạnh: “Luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong tự vệ thường trực”. Nghị quyết về Đội tự vệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành tư tưởng quân sự của Đảng thời kỳ mới thành lập. Lần đầu tiên những nguyên tắc xây dựng về chính trị cũng như về quân sự của lực lượng vũ trang cách mạng đã được đề ra một cách cơ bản và tương đối toàn diện. Những nguyên tắc ấy thể hiện quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng và quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc xây dựng lực lượng vũ trang, là cơ sở cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng ta sau này.


Tháng 9 - 1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng họp và trên cơ sở nhận định và phân tích tình hình, nhấn mạnh vấn đề giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, chủ trương phát triển lực lượng tự vệ “thật sự to, đủ dũng cảm và điềm tĩnh, khôn khéo và hy sinh bảo vệ quần chúng”, trong tương lai sẽ xây dựng “quốc dân cách mạng quân”.

Tháng 9 - 1940, Nhật chiếm Đông Dương, đất nước ta lúc này cùng lúc có hai kẻ thù là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Không cam chịu cảnh lầm than nô lệ, nhân dân đã anh dũng liên tiếp đứng lên tranh đấu. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, ngày 23 - 11 - 1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ. Đây là tiếng kèn báo hiệu một thời kỳ mới của cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quân du kích Nam Kỳ ra đời trong những ngày sôi sục khí thế cách mạng đó là một trong những lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của Quân đội ta.

Ngày 8 - 2 - 1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, trở về nước hoạt động, đã chủ trì Hội nghị Trung ương 8 tại Pắc Pó, Cao Bằng. Hội nghị là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển, hoàn thiện những quan điểm của Đảng về vũ trang khởi nghĩa ở Việt Nam. Quyết định xây dựng các tổ chức chính trị sâu rộng trong quần chúng, thành lập căn cứ địa cách mạng, xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang để chuẩn bị tranh thủ thời cơ, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị đã định ra “Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc”, đây là văn kiện chính trị - quân sự cơ bản của Đảng xác định rõ vị trí và mối quan hệ của đội trưởng, đoàn trưởng và chính trị viên, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển công tác đảng, công tác chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân. Thực hiện chủ trương trên, ngày 14 - 2 - 1941, tại khu rừng Khuổi Nọi thuộc xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn, Lạng Sơn, đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng công nhận, trao nhiệm vụ cứu nước cho Đội du kích Bắc Sơn. Sau đó, Đội du kích Bắc Sơn mang tên Cứu Quốc quân.
 Ngày 15 - 9 - 1941, Trung đội Cứu Quốc quân thứ hai được thành lập tại rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá, Vũ Nhai.

Năm 1944, tình hình chiến tranh có nhiều chuyển biến mau lẹ, Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công và đã giành thắng lợi trên nhiều mặt trận, mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng căng thẳng. Nắm bắt được tình hình, tháng 2 - 1944, Trung ương Đảng cử đồng chí Hoàng Quốc Việt, lên kiểm tra tình hình tại căn cứ địa Việt Bắc. Sau khi xem xét tình hình cụ thể, thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí đã chỉ đạo chia Khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai thành hai phân khu A và B; quyết định phát triển thêm lực lượng vũ trang cách mạng tại hai Phân khu. Theo chủ trương đó, ngày 25 - 2 - 1944, tại Khuổi Kịch thuộc châu Sơn Dương, Tuyên Quang, Trung đội Việt Nam Cứu Quốc quân thứ 3 được thành lập. Hoạt động mạnh mẽ của các đội Cứu Quốc quân đã đưa cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng của nhân dân ta phát triển lên một bước mới.

Tháng 12 - 1944, tại căn cứ địa Cao Bằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Chỉ thị ghi rõ: 
“Sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực... Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang”. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân có thể coi là Cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng, đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.

Chấp hành Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22 - 12 - 1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo, thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Ngay sau khi thành lập, ngày 25 - 12 - 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã tập kích diệt đồn Phai Khắt; ngày 26 - 12 - 1944, diệt đồn Nà Ngần. Chiến thắng Phai Khắt và Nà Ngần có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Chi bộ Đảng ngay từ buổi đầu mới thành lập; đồng thời, mở đầu truyền thống đánh thắng ngay từ trận đầu của Quân đội ta.

Từ ngày 15 đến 20 - 4 - 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà, Bắc Giang. Hội nghị phân tích tình hình thế giới, trong nước, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng mà thực tiễn cách mạng đặt ra. Đồng thời, Hội nghị quyết định thống nhất Cứu Quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân cùng các lực lượng vũ trang khác, thành Việt Nam Giải phóng quân để cùng với nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa. Những quyết định đúng đắn của Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ đánh dấu bước phát triển về tư duy quân sự của Đảng, đặc biệt là xác định cụ thể và thiết lập về tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Việt Nam Giải phóng quân.

Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ, nhưng đã sớm phát huy được truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc. Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Ngày 15 - 5 - 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc. Chín năm sau, dân tộc Việt Nam làm nên Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc là hậu phương lớn, nhân tố quyết định nhất để dân tộc Việt Nam hơn 20 năm sau đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng dân tộc Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Trải qua hơn 70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự đùm bọc và nuôi dưỡng của nhân dân, sự đoàn kết, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc, vừa chiến đấu vừa xây dựng, Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng phát triển và trưởng thành, cùng với dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất