Hiện nay, các quy định, chỉ đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giám sát và phản biện xã hội ngày càng được hoàn thiện.
Về cơ sở lý luận, vai trò giám sát và phản biện của MTTQ đã được khẳng định qua các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là từ Đại hội X trở lại đây. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu: "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội…"[1]. Đến Đại hội XI, Đảng ta nhấn mạnh: "Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội"[2]. Tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò, nhiệm vụ phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: "Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[3].
Về cơ sở pháp lý, vai trò giám sát và phản biện xã hội của MTTQ đã được khẳng định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015. Cụ thể, tại Khoản 1, Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định ''... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội". Lần đầu tiên trong Hiến pháp, chức năng giám sát và phản biện xã hội được đề cập một cách có hệ thống và được cụ thể hóa bằng quy chế.
Để cụ thể hóa nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam được nêu trong Hiến pháp năm 2013, tại Khoản 5, Điều 3: Quyền và trách nhiệm của MTTQ Việt Nam trong Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 ghi rõ: Thực hiện giám sát và phản biện xã hội. Đặc biệt, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã dành riêng 2 chương: Chương V gồm 7 điều (từ Điều 25 đến Điều 31) và Chương VI gồm 4 điều (từ Điều 32 đến Điều 36) quy định cụ thể nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam.
Như vậy, MTTQ Việt Nam đã có đầy đủ chức năng, nhiệm vụ để thực hiện nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội với những nội dung, hình thức cơ bản. Giám sát của MTTQ là việc Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với các hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật. Giám sát của MTTQ mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Hoạt động giám sát được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm phát huy dân chủ, sự tham gia của nhân dân và các thành viên của Mặt trận; xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân; thực hiện công khai, minh bạch, không chồng chéo; không làm cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát.
Phản biện xã hội là một hình thức phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ và ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia góp ý kiến đối với các dự thảo chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định lớn của Đảng và các dự thảo văn bản pháp luật của nhà nước, một số công trình, dự án lớn, quan trọng. Phản biện xã hội của MTTQ là phương thức cơ bản để Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan chú ý lắng nghe tiếng nói của người dân (và các thiết chế của nhân dân) khi ban hành các quyết định, nhất là các vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh, hoặc liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân; từ đó giúp Đảng, Nhà nước tiếp cận, đánh giá vấn đề một cách đa diện, nhiều chiều nhằm hạn chế, phòng ngừa việc quyết định chủ quan, một chiều hoặc mang tính áp đặt.
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Điều lệ Đảng; Quy chế làm việc và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư khóa XI; ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TƯ về ban hành quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Qua hơn 3 năm thực hiện Quyết định 217, Quyết định 218 của Bộ Chính trị, chất lượng, hiệu quả giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội được nâng lên một bước; nội dung, phương thức giám sát có nhiều đổi mới. Ủy ban MTTQ Việt Nam ba cấp (tỉnh, huyện, xã) đã chủ trì tổ chức 56.689 cuộc giám sát (cấp tỉnh 721 cuộc, cấp huyện 6.404 cuộc, cấp xã 49.564 cuộc), tập trung vào những việc thiết thực, liên quan đời sống, việc làm của người dân, như: thực hiện chính sách, chế độ bồi thường, giải phóng mặt bằng; bố trí tái định cư và tạm cư cho người dân có nhà, đất bị thu hồi; thực hiện các quy định về an toàn thực phẩm, an toàn giao thông; về công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân... Đồng thời, có hơn 3 vạn ý kiến phản biện của người dân gửi đến chính quyền các cấp, hơn 90 nghìn cuộc đối thoại giữa nhân dân với chính quyền các cấp thông qua vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên[4]. Kết quả đó đã góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo đồng thuận xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị vững mạnh.
Ngày 15-6-2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã ký Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN quy định chi tiết về các hình thức giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để MTTQ Việt Nam triển khai hiệu quả hơn nữa hoạt động giám sát và phản biện xã hội.
Tuy nhiên, công tác giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam thời gian qua còn không ít khó khăn, hạn chế: Nhiều nơi còn lúng túng trong lựa chọn nội dung giám sát và phản biện xã hội; chưa đưa ra được tiêu chí để lựa chọn nội dung phù hợp; kết quả giám sát và phản biện xã hội chưa đều, phản biện còn ít; một số nơi làm hình thức, thụ động; còn biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm; kỹ năng, năng lực trình độ cán bộ còn hạn chế; việc theo dõi thực hiện sau giám sát và phản biện nhiều nơi làm chưa tốt...
Những khó khăn, hạn chế này có nguyên nhân do phạm vi giám sát và phản biện xã hội rộng, yêu cầu cao trong khi nguồn lực con người và điều kiện vật chất của MTTQ Việt Nam có hạn; nhận thức của cán bộ mặt trận và đối tượng được giám sát, của cấp ủy, chính quyền còn nhiều biểu hiện chưa đúng, chưa đầy đủ; phản biện xã hội chưa có nhiều thực tiễn; giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội là giám sát không chế tài, ràng buộc trách nhiệm cho nên khâu thực hiện sau giám sát chưa cao; việc triển khai ở một số nơi còn nhiều nội dung, kiến nghị dàn trải; một số cấp, ngành chưa quan tâm thực hiện kiến nghị... Bên cạnh đó, có một số nội dung thực tế đang đòi hỏi nhưng chưa được quy định cụ thể. Ví dụ như: Chưa có cơ chế để MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện quy định góp ý kiến vào bản kiểm điểm hằng năm của tập thể cấp ủy các cấp; chưa có quy định cụ thể để phát huy trách nhiệm, vai trò của ban công tác mặt trận khu dân cư trong việc nhận xét, lấy ý kiến hằng năm và đột xuất đối với cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm về đạo đức, lối sống[5].
Vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội; phát huy vai trò chủ động của chủ thể giám sát, phản biện; tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy, sự đồng tình, ủng hộ, tạo điều kiện của chính quyền, đối tượng được giám sát; sự đồng hỗ trợ, giúp đỡ của nhân dân. Điều đó đòi hỏi phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc trong các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân các quy định của Đảng và Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội; kết quả, kinh nghiệm, cách làm thiết thực trong tổ chức thực hiện nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về công tác giám sát và phản biện xã hội. Có chương trình phối hợp cụ thể với các cơ quan truyền thông tạo sức mạnh công khai của giám sát, phản biện xã hội. Có như vậy, công tác giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội mới đạt được hiệu quả, phát huy được dân chủ, tập hợp được ý kiến đông đảo của nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Hai là, các cấp uỷ đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, thực hiện tốt vai trò vừa là thành viên, vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận. Sự quan tâm của cấp ủy quyết định hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Việc quan tâm của cấp ủy phải bằng những việc làm cụ thể: Tăng cường chỉ đạo thực hiện tốt quy chế phối hợp, thống nhất hành động giữa MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội với chính quyền các cấp, các ngành nhằm tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị - xã hội trong thực hiện nhiệm vụ chung; bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội để có đủ khả năng thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội; định kỳ nghe và góp ý kiến vào báo cáo kết quả giám sát, chỉ đạo UBND, các cơ quan thực hiện những kiến nghị của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội sau giám sát; có quy định về việc tiếp xúc, đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp; chủ động đề nghị MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội phản biện xã hội đối với các dự thảo nghị quyết quan trọng của cấp ủy; định kỳ sơ kết, tổng kết nhằm nhân rộng cách làm hay, có hiệu quả để rút kinh nghiệm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thời gian tới…
Đối với chính quyền, có chương trình phối hợp cụ thể hằng năm với MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp. Tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội của mình. Hướng dẫn sử dụng kinh phí, bảo đảm các điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Tiếp thu, trả lời kịp thời những kiến nghị của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ba là, Uỷ ban MTTQ các cấp tiếp tục tổ chức tập huấn và hướng dẫn nghiệp vụ giám sát và phản biện xã hội cho đội ngũ cán bộ MTTQ. Trong đó tập trung hướng dẫn quy trình thực hiện nhiệm vụ giám sát, phản biện xã hội; xây dựng thông tri hướng dẫn hoạt động cho Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban tư vấn, Tổ tư vấn và Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân và MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia góp ý, phản biện xã hội đối với việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật ở địa phương.
Động viên nhân dân giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là liên quan đến cơ chế, chính sách, chế độ hỗ trợ tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững, xây dựng danh hiệu khu dân cư văn hóa, gia đình văn hóa. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế bảo vệ những người dám giám sát, kiến nghị, đấu tranh; có như vậy mới khuyến khích được người dân, để người dân an tâm giám sát, kiến nghị xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày một hoàn thiện hơn.
Bốn là, hằng năm, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động lựa chọn những nội dung, vấn đề bức xúc có liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, đoàn viên và nhân dân để xây dựng kế hoạch triển khai công tác giám sát và phản biện xã hội, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến việc lựa chọn phương pháp giám sát, phản biện phù hợp. Bên cạnh đó, việc tổ chức đoàn giám sát và triển khai thực hiện cũng cần được quan tâm trong đó cần: rõ nội dung chủ trì, rõ nội dung phối hợp; tổ chức đoàn giám sát nên hợp lý, không nên nhiều đoàn trong một thời gian địa điểm, tăng giám sát vụ việc qua giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, công khai kết luận thanh tra, tính khách quan của các chỉ số hài lòng, vấn đề báo chí dư luận đang quan tâm; phối hợp chặt chẽ với báo, đài công khai giám sát và phản biện xã hội và tổng hợp thông tin, báo cáo tham mưu đề xuất kịp thời.
Năm là, phát huy các hình thức giám sát, phản biện xã hội. Trong công tác giám sát cần nghiên cứu, xem xét các văn bản liên quan đến hoạt động, nội dung giám sát; tổ chức đoàn giám sát. Trong công tác phản biện xã hội cần tổ chức hội nghị phản biện xã hội; gửi dự thảo văn bản phản biện đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện xã hội; hay tổ chức đối thoại trực tiếp giữa MTTQ Việt Nam với cơ quan, hoặc tổ chức có dự thảo văn bản được phản biện xã hội.
Cần huy động đội ngũ các chuyên gia đầu ngành trong tổ chức của MTTQ trên nhiều lĩnh vực tham gia vào quá trình giám sát và phản biện xã hội bằng các hình thức như tư vấn, phản biện về quy trình và kết quả giám sát, hậu kiểm kết quả xử lý các kiến nghị giám sát… nhằm tạo được bước đột phá trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận.
Sau giám sát và phản biện xã hội, cần theo dõi, đôn đốc, chất vấn yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các đề xuất, kiến nghị của đoàn giám sát.
Như vậy, có thể thấy hoạt động giám sát và phản biện xã hội là đòi hỏi khách quan của đời sống. Để xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh cần tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội. Đây cũng là một trong những đặc trưng để thực thi dân chủ, nền dân chủ thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Do vậy, MTTQ Việt Nam phải luôn xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao dân chủ và cải thiện đời sống cho nhân dân.
-------
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr.124.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011, tr.87.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H 2016, tr.166.
[4] Số liệu của MTTQ Việt Nam tại Hội nghị trực tuyến sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TƯ về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TƯ về ban hành quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền của Bộ Chính trị (khóa XI), Hà Nội ngày 16 tháng 5 năm 2017.
[5] Ngô Sách Thực, Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/33850402-phat-huy-vai-tro-giam-sat-va-phan-bien-xa-hoi-cua-mat-tran-to-quoc-viet-nam.html
Từ Lương
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam