Bình Dương đứng đầu cả nước về thu nhập bình quân đầu người.
Tính đến cuối năm 2021, quy mô kinh tế của tỉnh Bình Dương đạt 408.861 tỷ đồng, gấp 104,3 lần so với năm 1997, đứng thứ 3 cả nước sau TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, trong đó, nông nghiệp tăng 14,2 lần, dịch vụ tăng 112,2 lần, và đặc biệt công nghiệp tăng 140,6 lần. Đứng đầu cả nước về thu nhập bình quân đầu người, thứ 2 cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) sau TP. Hồ Chí Minh, đứng thứ 3 về tổng thu nội địa và về tỷ lệ trích nộp vào ngân sách Trung ương 64% (chỉ tiêu này cũng chỉ đứng sau TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội). Thành quả trên đã đưa Bình Dương đã trở thành một trong những địa phương đầu tiên đạt mức thu nhập trung bình cao, với GRDP bình quân đầu người 7.000 USD/người/năm.
|
Thành phố mới Bình Dương, trung tâm Vùng ĐMST Bình Dương.
|
Địa phương đầu tiên đạt mức thu nhập trung bình cao
Quá trình phát triển đó đã giúp Bình Dương bước đầu tích lũy được một nền tảng hạ tầng kỹ thuật giao thông, đô thị tương đối đồng bộ, thể hiện qua việc sớm hoàn thiện các phân đoạn chính thuộc tuyến đường Vành Đai 3 và một số đoạn thuộc Vành Đai 4 đi qua tỉnh, kết nối trực tiếp vào các tuyến đường trục chính nội tỉnh như Mỹ Phước - Tân Vạn - Bàu Bàng kết nối về phía cảng biển, sân bay quốc tế.
Tuy nhiên, việc trở thành một trong những địa phương có tốc độ phát triển kinh tế cao của cả nước và là địa phương đầu tiên đạt mức thu nhập trung bình cao đã đặt Bình Dương đứng trước thách thức phải sớm đương đầu và vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Xác định đây không chỉ là bài toán về năng suất lao động, phát triển kinh tế, mà còn là bài toán phát triển bền vững, bài toán bình đẳng xã hội, phát triển bao trùm và đồng đều, bài toán đô thị hóa, kết nối, hội nhập phát triển, tỉnh Bình Dương đã xây dựng chiến lược 6 trụ cột để vượt qua bẫy thu nhập trung bình thông qua việc vượt qua 6 bẫy thành phần như sau:
Trụ cột thứ nhất: Vượt bẫy Phát triển gián đoạn thông qua phát triển kế thừa; Trụ cột thứ hai: Vượt Bẫy Năng suất lao động tổng hợp thông qua phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo; Trụ cột thứ ba: Vượt Bẫy Đô thị hóa thông qua phát triển tích hợp; Trụ cột thứ tư: Vượt Bẫy Môi trường sinh thái thông qua phát triển bền vững; Trụ cột thứ năm: Vượt Bẫy Phụ thuộc thông qua Phát triển đa phương; Trụ cột thứ sáu: Vượt Bẫy Bất bình đẳng thông qua Phát triển bao trùm, đồng đều
Sáu trụ cột này sẽ luôn bao hàm thực thi việc tái cấu trúc mạng lưới công nghiệp nội tỉnh và xây dựng các mô hình công nghiệp mới, gắn liền với mạng lưới công nghiệp của vùng. Cụ thể với trụ cột thứ hai, Bình Dương đã xác định cần tiếp tục nâng cấp mô hình phát triển công nghiệp của tỉnh nhằm từng bước rời xa thâm dụng lao động và thâm dụng đất đai. Thông qua việc chuyển đổi mô hình phát triển từ Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ sang các mô hình phát triển công nghiệp tiếp theo với từng giai đoạn cụ thể như sau:
Giai đoạn một: Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ - Thông minh - Bền vững: Xây dựng và nâng cấp các khu công nghiệp hiện hữu trở thành các khu công nghiệp Thông minh, với khả năng cung cấp nền tảng công nghệ 4.0 như IoT, Big Data,... để giúp nhà đầu tư dễ dàng xây dựng, triển khai mô hình nhà máy thông minh, sản xuất thông minh trong hệ sinh thái của Bình Dương một cách nhanh chóng và hiệu quả, nhằm gia tăng năng suất lao động và thu hút các ngành công nghiệp xanh, thân thiện với môi trường.
Giai đoạn hai: Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Quốc tế - Đổi mới sáng tạo - Khoa học Công nghệ : xây dựng các Khu công nghiệp gắn liền với khoa học và công nghệ thu hút các viện trường, các hoạt động nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo, các ngành dịch vụ, dịch vụ số, nhằm thu hút các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao.
Cần giải pháp khắc phục các “điểm nghẽn”
Mặc dù mục tiêu, định hướng đã rõ ràng, nhưng để hiện thực hóa nó thì còn vô vàn những vấn đề cần phải được giải quyết. Qua quá trình thực hiện báo cáo tổng kết nghị quyết 53-NQ/TW ngày 29-8-2005 của Bộ Chính trị, tỉnh Bình Dương đã nêu những “điểm nghẽn” cố hữu mà Vùng Đông Nam Bộ nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ liên kết phát triển vùng đã và đang gặp phải. Có thể kể đến một số vướng mắc nổi bật như:
Thứ nhất, các tỉnh trong vùng như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai chưa có cơ chế đặc thù và được đầu tư đúng mức để thực hiện chức năng phát triển của nó.
Thứ hai, kết cấu hạ tầng mặc dù được đầu tư khá lớn, đồng bộ nhưng ngày càng quá tải chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Vùng, nhất là hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục chất lượng cao, chuyên khoa sâu... Các dự án giao thông trọng điểm kết nối vùng do Trung ương đầu tư còn hạn chế và chậm triển khai, nhất là hạ tầng giao thông cả trên đường bộ, đường sắt (đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Thủ Dầu Một - Chơn Thành; đường Vành đai 3, 4 TP. Hồ Chí Minh; tuyến đường sắt Dĩ An - Lộc Ninh)...
Thứ ba, hệ thống pháp luật hiện hành liên quan đến đầu tư công cũng như đầu tư tư nhân và hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều điểm vướng mắc, chồng chéo và chậm được sửa đổi. Các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách thuế, tín dụng, xuất nhập khẩu... chưa thật sự thông thoáng để tạo môi trường đầu tư và cạnh tranh thuận lợi, chưa tạo được động lực cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất - kinh doanh. Tỷ trọng đóng góp của các nhân tố tổng hợp chưa đạt như kỳ vọng.
Cuối cùng, chất lượng nguồn lao động mặc dù đã được quan tâm đầu tư nhưng hiện chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao và biên chế vẫn là vấn đề chưa giải quyết được trong thời gian qua.
H.Hào