Theo báo cáo của Cục Quản lý tài nguyên nước, nước ta có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450 sông, suối tương đối lớn. Tổng lượng nước mặt trung bình năm khoảng 830-840 tỷ m3 được tập trung chủ yếu trên 9 lưu vực sông lớn, bao gồm: Hồng - Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng Nai và sông Cửu Long. Tuy nhiên, khoảng 63% nguồn nước mặt (tương ứng với 520 tỷ m3) đến từ nước ngoài, chỉ có gần 310 tỷ m3 mỗi năm được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Tổng trữ lượng tiềm năng nguồn nước dưới đất khoảng 63 tỷ m3/năm.
Cũng như nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, nước ta đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức liên quan đến nguồn nước. Tài nguyên nước ở nhiều nơi suy giảm nghiêm trọng; tình trạng lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặt, nước biển dâng, triều cường, sạt, lở bờ sông, biển ngày càng trầm trọng... Sức ép của phát triển kinh tế - xã hội, tăng dân số, đô thị hóa đã và đang làm gia tăng nhu cầu sử dụng nước, phát sinh những mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng, tài nguyên nước trên một số lưu vực sông đang đứng trước nguy cơ suy thoái, ô nhiễm. Biến đổi khí hậu cũng đã và đang tác động mạnh mẽ đến tài nguyên nước.
Trong những năm qua, công tác quản lý tài nguyên nước đã và đang đạt được những thành quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, công tác quản lý tài nguyên nước vẫn còn khó khăn do chưa được quy hoạch một cách tổng thể toàn diện. Việc thực hiện quy hoạch tài nguyên nước hay các quy hoạch chuyên ngành có liên quan đến tài nguyên nước mới chỉ được đầu tư ở cấp tỉnh/thành phố và ở lĩnh vực ngành; các quy hoạch này chỉ tập trung trong phạm vi của tỉnh hoặc đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng của từng ngành mà chưa xem xét, đánh giá toàn diện tiềm năng nguồn nước, nhu cầu sử dụng của các ngành, chia sẻ nguồn nước cho các ngành khác, giữa thượng lưu và hạ lưu, cũng như nhu cầu bảo đảm dòng chảy môi trường và duy trì hệ sinh thái thủy sinh….
Trước những vấn đề trên, việc xây dựng nhiệm vụ lập quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 là hết sức quan trọng và cần thiết. Quy hoạch sẽ được xây dựng trên toàn bộ phần diện tích đất liền và diện tích các đảo lớn trên lãnh thổ Việt Nam với tổng diện tích khoảng 331.231km2. Đối tượng nghiên cứu của quy hoạch là nước mặt và nước dưới đất. Hội đồng thẩm định hồ sơ nhiệm vụ lập quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã họp để đánh giá chi tiết, cụ thể tình hình, từ đó các thành viên đóng góp ý kiến xây dựng quy hoạch tài nguyên nước bảo đảm chất lượng, phù hợp với quy hoạch cấp cao hơn và liên kết giữa lĩnh vực tài nguyên nước với các lĩnh vực sử dụng nước khác như thủy lợi, thủy điện, xây dựng, giao thông... Trên tinh thần đó, quy hoạch tài nguyên nước phải phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, bảo đảm tính liên kết tổng thể trên phạm vi từng vùng, từng lưu vực sông; phải liên kết với các ngành sử dụng nước khác nhau để phát triển bền vững, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa mục tiêu. Các vấn đề cần lưu ý trong xây dựng quy hoạch tài nguyên nước như: quan hệ giữa quy hoạch tài nguyên nước với các quy hoạch khác để thống nhất, hài hòa lợi ích sử dụng nước giữa các đối tượng; phân vùng quy hoạch bảo đảm quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực; phải ưu tiên bảo đảm cấp nước cho sinh hoạt; bảo đảm tính toàn diện, gắn kết giữa nước mặt và nước dưới đất; thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng...
PV