Xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong chiến lược cán bộ của Đảng ta hiện nay
Đồng chí Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ trao Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam năm 2017 nhân Ngày Phụ nữ Việt Nam 20-10-2017.

Kết quả công tác cán bộ nữ

Thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và của Nhà nước (Luật Bình Đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới), nhất là Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, công tác cán bộ nữ đã được các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền từ Trung ương tới địa phương quan tâm chỉ đạo và đạt được những kết quả tích cực trên các mặt. Công tác tạo nguồn, quy hoạch cán bộ nữ ở các cấp đã từng bước đi vào nền nếp. Nguồn cán bộ nữ quy hoạch cho các chức danh lãnh đạo, quản lý khá dồi dào, nhất là ở cấp tỉnh, cấp huyện; cơ bản bảo đảm sự đồng bộ từ dưới lên; trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề, tỷ lệ cán bộ nữ trẻ, cán bộ dân tộc nữ có bước tiến bộ. Trên cơ sở quy hoạch, nhiều cấp ủy đã quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ nữ, tạo điều kiện thuận lợi để chị em phát huy vai trò, năng lực của mình. Do đó, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp ngày càng nhiều; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ không ngừng tăng; số lượng cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, thậm chí trong lực lượng vũ trang và những lĩnh vực trước kia chỉ dành riêng cho nam giới ngày càng tăng.

Cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp

Ở cấp Trung ương, tỷ lệ số lượng nữ tham gia Bộ Chính trị và Ban Bí thư tăng lên qua các khoá[1]. Nếu như nhiệm kỳ Đại hội VIII của Đảng mới có 1 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị là nữ thì nhiệm kỳ Đại hội XII đã có 3 đồng chí nữ Ủy viên Bộ Chính trị, chiếm 15,79%. Phụ nữ tham gia Ban chấp hành Trung ương lần đầu tiên là từ Đại hội VIII của Đảng. Con số này có xu hướng tăng liên tiếp trong 3 khóa X, XI, XII với các tỷ lệ tương ứng là 7,5%, 8,13% và 10%.

Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ tham gia ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố qua 5 nhiệm kỳ gần đây tăng từ 11,3% đến 13,3% (nhiệm kỳ 1995 - 2000 là 11,3%; nhiệm kỳ 2000 - 2005 là 11,32%; nhiệm kỳ 2005 - 2010 là 11,75%; nhiệm kỳ 2010 - 2015 là 11,42% và nhiệm kỳ 2015 - 2020 là 13,3%). Trong số đó có 21 đảng bộ đạt trên 15% so với 10 đảng bộ của nhiệm kỳ trước.

Ở cấp huyện, tỷ lệ nữ tham gia ban chấp hành đảng bộ huyện và tương đương 4 nhiệm kỳ gần đây đều tăng, từ 11,68% lên 14,3% (nhiệm kỳ 1995 - 2000 là 11,68%; nhiệm kỳ 2000 - 2005 là 12,68%; nhiệm kỳ 2010 - 2015 là 14,74%; nhiệm kỳ 2015 - 2020 là 14,3%). Thậm chí, có nhiều nơi đạt tỷ lệ trên 20%.

Ở cấp xã, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy cơ sở qua các nhiệm kỳ gần đây tăng nhanh, từ 11,73% lên 19,7% (nhiệm kỳ 1995 - 2000 là 11,73%; nhiệm kỳ 2000 - 2005 là 11,88%; nhiệm kỳ 2005 - 2010 là 15,08%; nhiệm kỳ 2010 - 2015 là 18,1% và nhiệm kỳ 2015 - 2020 là 19,7%).

Như vậy, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy từ Trung ương tới địa phương có xu hướng tăng trong thời gian gần đây nhưng không đều ở các cấp, tăng nhanh nhất là ở cấp xã, sau đến cấp huyện và cấp tỉnh. Cấp càng cao thì tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy càng thấp; cấp càng thấp thì tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy càng cao (cấp xã cao hơn cấp huyện; cấp huyện cao hơn cấp tỉnh, cấp tỉnh cao hơn cấp Trung ương).

Nơi nào cấp ủy thực sự quan tâm và chỉ đạo quyết liệt công tác cán bộ nữ thì tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy cao hơn. Thực tế cho thấy, cùng cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã nhưng có nơi đạt tỷ lệ rất cao, nhưng có nơi lại đạt tỷ lệ rất thấp. Những nơi có bí thư tỉnh, thành phố là nữ thì cũng có nhiều bí thư, phó bí thư quận, huyện là nữ. Những nơi có nữ bí thư, phó bí thư quận, huyện thì cũng có nhiều bí thư, phó bí thư xã, phường, thị trấn là nữ.

Một số địa phương có tỷ lệ nữ tham gia ban chấp hành hoặc ban thường vụ khá cao nhưng tỷ lệ nữ tham gia ban thường vụ và làm bí thư, phó bí thư ở cả 3 cấp đều thấp, dưới 10% hoặc thấp hơn. Cá biệt, có một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không có nữ tham gia ban thường vụ.

Cán bộ nữ tham gia Quốc hội và HĐND các cấp

Ở cấp Trung ương, số đại biểu Quốc hội 5 khóa gần đây có xu hướng tăng nhưng không ổn định, từ 26,22% của khóa X lên 26,80% của khoá XIV (khóa XI là 27,31%; khóa XII là 25,76%; khóa XIII là 24,40%). Đặc biệt, nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII có 2 Phó Chủ tịch là nữ, nhiệm kỳ khoá XIV có 1 Chủ tịch và 1 Phó chủ tịch là nữ. Hiện nay, Việt Nam được đánh giá là nước có số đại biểu nữ cao trong Quốc hội, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XIII của Việt Nam xếp thứ 39 trên 189 nước trên thế giới, đứng thứ 2 khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (sau Niu Di-lân) và đứng thứ 6 ở Châu Á.

Ở cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã, tỷ lệ nữ là đại biểu hội đồng nhân dân tăng nhanh, nhất là ở cấp xã. Theo thống kê, 4 nhiệm kỳ gần đây (1999 - 2004, 2004 - 2011, 2011 - 2016, 2016 - 2021) tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp tỉnh lần lượt là 21,57%, 23,8, 25,7% và 26,56%; cấp huyện là 20,99%, 22,9%,  24,6% và 27,50%; cấp xã là 16,61%, 20,10%,  27,7% và 26,59%.

Như vậy, tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân 4 khóa gần đây đều tăng ở các cấp, trong đó tăng cao nhất là cấp xã, sau đến cấp huyện và cấp tỉnh. Qua mỗi nhiệm kỳ, tỷ lệ nữ tham gia hội đồng nhân dân cấp xã tăng khoảng 2%/nhiệm kỳ. Tuy có xu hướng tăng nhưng tỷ lệ phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp vẫn chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra là 30%; có một số chức danh tăng nhiều nhưng không phải cấp quyết định, chủ yếu là các chức danh cấp phó. Trong khi đó một số địa phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Kon Tum có tỷ lệ phụ nữ tham gia hội đồng nhận dân đạt tỷ lệ cao ở cả 3 cấp.

Cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý các cấp

Theo thống kê, hiện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý là 9,76%; cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ cấp bộ và tương đương là 7,86%; cán bộ nữ cấp tổng cục và cấp cục, vụ, viện là 17,02%; cấp tỉnh là 11,90%; ở cấp huyện là 9,98% và cấp xã là 10,37%. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ ở miền Bắc, chiếm 40,63%, miền Trung là 32,57% và miền Nam là 26,80%. Càng ở cấp cao thì tỷ lệ nữ làm lãnh đạo, quản lý càng thấp, cả ở Trung ương và địa phương.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ ở các cấp nhìn chung còn thấp, chỉ đạt trên dưới 10% nhưng phần lớn làm cấp phó và không đồng đều giữa các ngành, các địa phương. Chẳng hạn, tỷ lệ nữ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục trở xuống của Thông tấn xã Việt Nam chiếm 41,76%, sau đến Bộ Tư pháp 31,17%, Đài tiếng nói Việt Nam  25,25% so với 8,9% của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 6,9% của Thanh tra Chính phủ và 1,89% của Bộ Công an... Tỷ lệ nữ làm lãnh đạo, quản lý ở các tỉnh, thành phố ở khu vực phía Bắc cao hơn miền Trung và các tỉnh, thành phố miền Trung cao hơn các tỉnh, thành phố miền Nam. Các tỉnh, thành phố phát triển có tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý cao hơn những tỉnh, thành phố kém phát triển. Tuy nhiên, một số tỉnh miền núi, khó khăn như Tuyên Quang, Hà giang, Lào Cai, Lạng Sơn, Lai Châu, Kon Tum lại có tỷ lệ cao hơn một số tỉnh ở đồng bằng. 

Tuy nhiên, phụ nữ hiện nay vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức từ định kiến giới. Nhận thức về giới và bình đẳng giới của một số cấp ủy, các tổ chức đảng và chính quyền các địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp, nhất là người đứng đầu chưa đầy đủ, sâu sắc và chưa toàn diện. Công tác quy hoạch cán bộ nữ có nơi bị động, mang tính tình thế, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu trước mắt. Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các địa phương trong việc triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, kế hoạch của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ nữ. Vì vậy, việc tham gia của phụ nữ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các mặt của đời sống xã hội chưa tương xứng với tiềm năng của chị em, vai trò lãnh đạo của phụ nữ trong xã hội chưa được phát huy. 

Giải pháp tăng cường công tác cán bộ nữ

Để tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền quán triệt và thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, nâng cao nhận thức, quan điểm của các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là của người đứng đầu về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới một cách rộng rãi, thường xuyên, liên tục. Vấn đề chính là sự thay đổi trong nhận thức của cả xã hội, trong đó có đội ngũ lãnh đạo các cấp, nhất là người đứng đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị về bình đẳng giới để từ đó có những chủ trương, giải pháp và hành động cụ thể, quyết liệt nhằm thay đổi cơ bản tình hình. Hiện vai trò, khả năng của cán bộ nữ nhìn chung chưa được các cấp, các ngành đánh giá đúng mức mặc dù đã có nhiều chuyển biến tích cực thời gian gần đây. Có một số nơi và một số cá nhân vẫn chưa thấy hết tầm quan trọng, sự cần thiết phải phát huy năng lực và trí tuệ của phụ nữ vào các mặt của đời sống xã hội.

Quan trọng nhất là tạo được sự thống nhất về nhận thức, nâng cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với công tác cán bộ nữ, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp. Tuy nhiên, sự thay đổi tư duy và hành động của cả xã hội trong lĩnh vực bình đẳng giới không thể nhanh chóng, nhất là trong lúc ảnh hưởng của định kiến giới, đặc trưng từ hệ tư tưởng Nho giáo vẫn rất nặng nề. Công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng giới phải được tiến hành thường xuyên, rộng khắp, trên mọi bình diện, ở các cấp học, nhằm vào các tầng lớp xã hội, các vùng miền.

Hai là, hoàn thiện chính sách bình đẳng giới theo hướng thống nhất, liên thông để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ một cách thực sự. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có những quyết tâm chính trị, nỗ lực để hiện thực hóa Luật Bình đẳng giới nhưng sự cải thiện sự bất bình đẳng giới còn chậm chạp, chưa có những thay đổi lớn. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các cấp tăng chậm và thiếu bền vững. Vấn đề chính là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới thiếu thống nhất, thậm chí có điểm mâu thuẫn nhau, nhất là trong khung chính sách giữa nam giới và nữ giới. Sự phân biệt đối xử trong khung chính sách sẽ ảnh hưởng tới việc duy trì khuôn mẫu giới về lãnh đạo, quản lý trong cộng đồng.

Trước mắt, cần rà soát các văn bản quy phạm pháp luật từ góc độ giới, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật bình đẳng giới nhằm tạo cơ hội và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt, cần rà lại các quy định liên quan đến độ tuổi đào tạo, bồi dưỡng; tuổi đề bạt, bổ nhiệm cán bộ nữ; tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ đang tồn tại trong các văn bản hiện nay. Cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị, đưa các chỉ tiêu về bình đẳng giới vào quá trình hoạch định chính sách của các địa phương, các bộ, ngành một cách quyết liệt hơn. Đây là giải pháp mang tính chiến lược, lâu dài để bảo đảm tiếng nói và quyền lực chính trị của người phụ nữ, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới một cách bền vững.

Ba là, làm tốt công tác tạo nguồn và quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ ở tất cả các cấp, các ngành, cả ở địa phương và Trung ương, trong đó chú trọng cấp chiến lược; bảo đảm tính liên thông giữa các cấp, trong đó lấy quy hoạch cấp ủy là cơ sở để quy hoạch, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan đảng, nhà nước, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, giao việc thử thách, bố trí công việc gắn chặt với vấn đề tạo nguồn cán bộ nữ. Tất cả các khâu trong quy trình này phải được triển khai đồng bộ, quyết liệt với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn. Mỗi khâu có vai trò riêng nhưng gắn kết chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Không thể xem nhẹ bất cứ khâu nào trong toàn bộ quy trình vì chỉ một mắt xích không đảm bảo sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng và chất lượng nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ.

Trước mắt, rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ nữ, phát hiện những cán bộ trẻ có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt, có triển vọng, nhiệt tình để đào tạo. Cần kết hợp hài hòa giữa đào tạo để phát hiện và phát hiện để đào tạo. Chú trọng những cán bộ, quản lý và công chức nữ có thành tích xuất sắc, những cán bộ nữ người dân tộc thiểu số, các nhà khoa học trẻ tuổi có sáng kiến tốt, ý tưởng hay ở cấp dưới để đưa vào quy hoạch cấp cao hơn, nhất là cấp chiến lược. Đối với những ngành, cơ quan, đơn vị có đông lao động nữ, cấp ủy, tổ chức đảng cấp nào phải có cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở cấp đó; có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách để tham mưu cho cấp ủy về công tác cán bộ nữ. Nếu không đáp ứng yêu cầu này thì cấp ủy cấp có thẩm quyền không phê duyệt quy hoạch của cấp dưới hoặc điều động, bố trí cán bộ nữ từ nơi khác đến. Tiếp tục tổ chức thí điểm việc thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý để thu hút những cán bộ nữ có đủ năng lực và trình độ.

Công tác tạo nguồn và quy hoạch cán bộ nữ cần đặt trong chiến lược nguồn nhân lực quốc gia. Mỗi cấp, mỗi ngành phải có kế hoạch tạo nguồn và quy hoạch cán bộ nữ; việc tạo nguồn, quy hoạch phải gắn với chỉ tiêu thi đua của từng cấp, từng ngành, gắn với trách nhiệm của cấp ủy, trước hết và trực tiếp là người đứng đầu. Xác định những ngành, lĩnh vực có thể phát huy thế mạnh của phụ nữ, những chức danh lãnh đạo, quản lý cần có cán bộ nữ, từ đó, có kế hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng. Việc tạo nguồn và quy hoạch phải căn cứ vào điều kiện cụ thể, tính đến yếu tố vùng miền, đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động và từng độ tuổi của chị em để có các yêu cầu về điều kiện, tiêu chuẩn cán bộ phù hợp. Tránh “cào bằng” hoặc “đổ đồng” trong đánh giá cán bộ nữ dẫn tới không tìm được những cá nhân tiêu biểu, xuất sắc để đưa vào quy hoạch, tao nguồn cán bộ. Đảm bảo tỷ lệ nữ tuyển dụng vào các cơ quan Đảng, quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp, các đoàn thể và doanh nghiệp. Tránh tình trạng chỉ chú trọng tuyển nam giới như ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị hiện nay. Tạo nguồn và quy hoạch cán bộ nữ phải được triển khai đồng bộ, chú ý tạo nền tảng cho cán bộ nữ từ phát triển đảng viên. 

Bốn là, công tác quy hoạch cán bộ cán bộ nữ phải tiến hành theo phương châm “động” và “mở”, gắn quy hoạch với đề bạt, bổ nhiệm, khắc phục tình trạng quy hoạch một cách hình thức. Việc bổ sung vào quy hoạch và đưa ra khỏi quy hoạch phải trở thành công việc thường xuyên và hết sức chủ động của các cấp ủy, chính quyền từ Trung ương tới cơ sở. Hằng năm phải rà soát, điều chỉnh quy hoạch, kịp thời bổ sung những người xuất sắc tiêu biểu, đủ tiêu chuẩn vào danh sách quy hoạch và đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn ra khỏi danh sách quy hoạch. Việc phát hiện nguồn cán bộ để đưa vào quy hoạch cần mở rộng ra các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị khác, không chỉ khép kín trong phạm vi địa phương, cơ quan, đơn vị mình.

Quy định cụ thể về tỷ lệ cán bộ nữ trong quy hoạch của mỗi cấp, mỗi đơn vị; quy hoạch phải có địa chỉ cụ thể, gắn với đề bạt, bổ nhiệm. Tăng cường luân chuyển cán bộ nữ theo chiều dọc và chiều ngang, tạo động lực để cán bộ nữ phát huy vai trò sáng tạo, xung kích hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các cấp ủy phải tích cực đưa cán bộ nữ trong diện quy hoạch đi đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và từng bước giao việc, bố trí vào các vị trí công tác hoặc chức danh phù hợp để có đủ điều kiện bổ nhiệm, đề bạt. Mạnh dạn bố trí cán bộ nữ đã được rèn luyện, thử thách và có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý thích hợp. Có như vậy mới tránh được tình trạng quy hoạch “treo”, khắc phục tình trạng tỷ lệ nữ trúng cử vào các chức danh cấp trưởng thấp hơn so với tỷ lệ quy hoạch[2]

Năm là, phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ các đoàn thể chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị nhằm tăng cường tỷ lệ lãnh đạo, quản lý nữ. Tăng cường tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị không phải là việc riêng của phụ nữ, cũng không phải là sự “ban phát” của xã hội mà đó là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội. Vì thế, các cấp ủy, chính quyền phải quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng tạo điều kiện cho cấp Hội Phụ nữ thực hiện hiệu quả chức năng của mình. Các đoàn thể chính trị - xã hội có trách nhiệm tuyên truyền, vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia tích cực vào các phong trào để qua đó phát hiện nguồn giới thiệu vào các vị trí lãnh đạo.

Hội Liên hiệp Phụ nữ, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ các cấp, các địa phương đẩy mạnh chức năng tham mưu, phản biện để tăng cường tiếng nói, nguyện vọng chính đáng của chị em  vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ và việc thực thi bình đẳng giới trên thực tế. Phải làm tốt vai trò nòng cốt trong tham mưu và thực hiện các giải pháp phù hợp để nâng cao nhận thức cho phụ nữ về bình đẳng giới, khắc phục tư tưởng tự ti, an phận, níu kéo nhau của chị em, đồng thời, nêu cao tinh thần tự chủ, đoàn kết, vượt khó, không ngừng phấn đấu để tiến bộ, đóng góp hơn nữa cho xã hội. Chủ động phối hợp, phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tham gia giám sát, phản biện xã hội về chính sách cán bộ nữ.

Sáu là, tạo mọi điều kiện để phụ nữ chủ động khắc phục những khó khăn của bản thân, tự vươn để khẳng định mình trong công tác và cuộc sống. Để tăng cường số lượng, chất lượng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị các cấp, bản thân chị em phải nỗ lực vươn lên, nắm bắt cơ hội học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ để tự khẳng định mình. Mỗi thời kỳ có những cơ hội và yêu cầu mang tính lịch sử riêng. Thực tiễn cho thấy, sự cần cù, chịu khó, chấp hành kỷ luật vốn là những đức tính đáng quý của người phụ nữ Việt Nam nhưng điều đó là chưa đủ với thời đại mới. Bối cảnh trong nước và trên thế giới luôn biến động, những tình huống mới xuất hiện, do đó phụ nữ cần phải có quyết tâm, năng động, sáng tạo, quyết đoán, quyết liệt, có tư duy độc lập, có thể tự giải quyết những vấn đề phức tạp mới nảy sinh. Đây là những tố chất rất cần thiết đối với người lãnh đạo, quản lý nữ hiện đại.

Bảy là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về bình đẳng giới, trước hết là quy định về độ tuổi đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm. Việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về phụ nữ nói chung và Luật Bình Đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới nói riêng sẽ không thực sự hiệu quả nếu công tác thanh tra, kiểm tra bị buông lỏng. Thanh tra, kiểm tra phải gắn với các biện pháp khen thưởng, xử lý kỷ luật các cấp ủy, chính quyền, nhất là người đứng đầu. Chú trọng sơ kết, tổng kết để kịp thời phát hiện những hạn chế nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ nữ.



[1] Nhiệm kỳ Đại hội IX có 1 đồng chí nữ tham gia Ban Bí thư; nhiệm kỳ Đại hội X có 2 đồng chí nữ tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư; nhiệm kỳ Đại hội XI có 3 đồng chí tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư và nhiệm kỳ Đại hội XII có 3 đồng chí nữ là Ủy viên Bộ Chính trị (15,79%).

[2] Thực tế cho thấy, khi quy hoạch ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố thì tỷ lệ nữ đạt 20,3%; quy hoạch vào ban thường vụ là 16,4%; quy hoạch chức danh bí thư là 14,3%; quy hoạch chức danh chủ tịch hội đồng nhân dân là 23,7% và quy hoạch chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố là 9%, nhưng khi bầu lại chỉ đạt trên dưới 5%.)

 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất