Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ nữ
Bác Hồ và đồng chí Nguyễn Thị Thập tiếp đại biểu phụ nữ các dân tộc thiểu số, năm 1965.

Ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc, Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề phụ nữ. Sự nghiệp giải phóng phóng phụ nữ là một trong những vấn đề đầu tiên được Bác nhắc tới. Người cho rằng, nếu không giải phóng phụ nữ thì không thể giải phóng một nửa loài người, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa. Giải phóng phụ nữ trước hết là phải giải phóng sức lao động của chị em, một lực lượng to lớn, quan trọng; phải thực hiện bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực, tiêu diệt tư tưởng phong kiến, trọng nam, khinh nữ.

Chủ tịch Hồ chí Minh đánh giá rất cao vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và luôn gắn độc lập dân tộc với việc giải phóng phụ nữ. Trong bài viết của mình, Bác khẳng định “xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là không có đàn bà, con gái tham gia” và “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công[1]. Theo Người, dân tộc tự do, độc lập thì phụ nữ mới tự do, độc lập; xã hội không còn áp bức bóc lột giai cấp thì phụ nữ mới được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột. Giải phóng phụ nữ nhằm phát triển năng lực cá nhân phụ nữ, gắn liền với giải phóng giới và xã hội. Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải quan tâm giáo dục, giúp đỡ, tạo điều kiện cho chị em phụ nữ tiến bộ, không thành kiến, hẹp hòi với họ, và việc phát huy vai trò và năng lực sáng tạo của phụ nữ là trách nhiệm của toàn xã hội.

Trong các chuyến đi công tác hoặc khi về thăm cơ sở, Bác luôn quan tâm đến số lượng, tỷ lệ đại biểu nữ và ân cần mời chị em lên hàng ghế đầu, động viên chị em phát biểu ý kiến. Khi thấy cán bộ nữ trưởng thành, tiến bộ, Người động viên, khuyến khích kịp thời. Ở ngành nào, địa phương nào chưa quan tâm đến chị em, có tư tưởng hẹp hòi, không đánh giá đúng khả năng của phụ nữ, Người đã nhắc nhở, phê phán kịp thời. Theo Bác, để lựa chọn và bố trí nhân sự cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ một cách có hiệu quả thì trước hết người lãnh đạo phải “biết người”. Bác luôn nhắc nhở phải có chủ trương, chính sách, giải pháp thật cụ thể, thiết thực để tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào công tác chính quyền, đoàn thể; phát huy tài năng, sở trường của họ trong các lĩnh vực phù hợp với bản thân phụ nữ.

Trên thực tế, những tư tưởng của Hồ Chủ Tịch về giải phóng phụ nữ và công tác cán bộ nữ đã được thể chế hoá thành pháp luật, thành cơ chế hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nước ta qua mỗi thời kỳ cách mạng.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn quan tâm chăm lo công tác cán bô nữ và coi đó là một bộ phận quan trọng, mang tính chiến lược trong công tác cán bộ của Đảng. Ngay từ Cương lĩnh Chính trị đầu tiên năm 1930, Đảng đã xác định phụ nữ là lực lượng cách mạng to lớn và tạo mọi điều kiện để phụ nữ tham gia các lĩnh vực phát triển đất nước. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp của Đảng luôn gắn liền với giải phóng phụ nữ, và tư tưởng “nam nữ bình quyền” là chính sách nhất quán - một trong những nhiệm vụ cốt yếu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam trong những năm qua. 

Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã khẳng định “Phụ nữ bình đẳng với nam giới trên mọi phương diện”[2]. Tư tưởng này vẫn tiếp tục thể hiện rõ và ngày càng phát triển trong các Hiến pháp sau đó, được cụ thể hóa hơn qua từng thời kỳ cách mạng với những trọng tâm riêng căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước. Từ chỗ bình quyền với nam giới một cách chung chung trong Hiến pháp đầu tiên, quyền của phụ nữ đã được đầy đủ và toàn diện hơn trong Hiến pháp thứ hai năm 1959, theo đó “Phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội[3]

Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vai trò to lớn của phụ nữ cũng như công tác cán bộ nữ được Đảng ta xác định rõ: “Phụ nữ nước ta là một lực lượng quan trọng trong cách mạng và trong sản xuất, do đó toàn Đảng và toàn dân phải có trách nhiệm lớn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ[4]. Tiếp đó, các Nghị quyết 152 và 153 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa III đều nhấn mạnh, cụ thể hơn một số vấn đề về tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận của Đảng và công tác cán bộ nữ nhằm không ngừng nâng cao vai trò, vị thế và năng lực của phụ nữ đối với sự nghiệp chung của dân tộc.

Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề cán bộ nữ đã được đặt ra một cách hết sức cấp bách và cấp thiết. Chỉ thị số 44 - CT/TW ngày 07/6/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ” đã khẳng định những đóng góp quan trọng của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chỉ rõ sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ nữ là bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nam nữ bình đẳng và đề ra phương hướng cho công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ nữ.

Chỉ thị đã thể hiện rõ sự đổi mới về nhận thức của Đảng về công tác cán bộ nữ. Theo đó: (1) Tăng cường công tác cán bộ nữ không chỉ để làm công tác vận động phụ nữ mà chính là để phát huy khả năng, trí tuệ của chị em vào sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và công việc quản lý của Nhà nước; (2) Tiếp tục thực hiện nam nữ bình đẳng, nâng cao vai trò cán bộ nữ trong quản lý kinh tế, quản lý nhà nước nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng; (3) Để tăng cường vai trò cán bộ nữ, công tác cán bộ nữ phải được đặt trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước; cần phải tuyển chọn cán bộ nữ từ những người ưu tú trong giai cấp công nhân, nông dân, trí thức cách mạng, nhất là những người đã được rèn luyện từ thực tiễn phong trào cách mạng; cần phải tiếp tục bồi dưỡng, tạo điều kiện giúp chị em hoàn thành nhiệm vụ sau khi đề bạt, cất nhắc.

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, vai trò lãnh đạo, quản lý toàn diện của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội tiếp tục được Đảng và Nhà nước quan tâm. Chỉ thị số 37 - CT/TW, ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về “Một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” đã nhấn mạnh tới việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ; là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Nhiệm vụ đặt ra là cần phải chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ và khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ nữ.

Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới và đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, những yếu kém của công tác cán bộ, trong đó có cán bộ nữ đã được làm rõ trong Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996. Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” đã đề ra phương hướng công tác cán bộ của thời kỳ mới một cách toàn diện. Tiếp theo đó là một loạt các văn bản của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa gần đây về công tác cán bộ, trong đó có công tác cán bộ nữ [5].

Dưới góc độ Nhà nước, Việt Nam đã có Luật Bình Đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và nhiều văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ một cách toàn diện. Vấn đề phụ nữ lúc này không chỉ còn là sự bình quyền đơn thuần mà đã được được xem xét dưới góc độ toàn diện, phải “Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp[6].

Đặc biệt là Chỉ thị 36-CT/TW ngày 30-5-2014 của Bộ Chính trị về “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng” đề ra yêu cầu hết sức cụ thể đối với các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền từ Trung ương tới địa phương về công tác cán bộ nữ. Theo đó, phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ không dưới 15% và cần có nữ tham gia ban thường vụ; nếu nơi nào chưa bảo đảm được tỷ lệ nêu trên thì phải bầu thiếu số lượng để tiếp tục chuẩn bị và sẽ bổ sung sau. Tiếp đó, Chỉ thị của Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 nhấn mạnh, phải tăng tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục đề cập đến việc “Tăng tỉ lệ cán bộ lãnh đạo, cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ[7]. Đây là cơ sở rất quan trọng để tăng cường và phát huy vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị ở các cấp.

Thực hiên các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn bản khác của Nhà nước (Luật Bình Đẳng giới, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới), nhất là Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, công tác cán bộ nữ đã được các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền từ Trung ương tới địa phương quan tâm chỉ đạo và đạt được những kết quả tích cực trên các mặt. Công tác tạo nguồn, quy hoạch cán bộ nữ ở các cấp đã từng bước đi vào nền nếp. Nguồn cán bộ nữ quy hoạch cho các chức danh lãnh đạo, quản lý khá dồi dào, nhất là ở cấp tỉnh, cấp huyện; cơ bản bảo đảm sự đồng bộ từ dưới lên; trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề, tỷ lệ cán bộ nữ trẻ, cán bộ dân tộc nữ có bước tiến bộ. Trên cơ sở quy hoạch, nhiều cấp ủy đã quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ nữ, tạo điều kiện thuận lợi để chị em phát huy vai trò, năng lực của mình. Do đó, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp ngày càng nhiều; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là nữ không ngừng tăng; số lượng cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, trong lực lượng vũ trang ngày càng tăng.

Hà Hằng




[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 2, trang 289. [2] Hiến pháp năm 1946. [3] Hiến pháp năm 1959. [4] Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960. [5] Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và Kết luận số 55-KL/TW ngày 18/1/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Chỉ thị số 51-CT/TW của Bộ Chính trị về bình đẳng giới; Chỉ thị số 36-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hiến pháp, Luật Bình đẳng giới năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2010 – 2020; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam giai đoạn 20110 – 2010 và tầm nhìn 2030; Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 và Nghị định số 56/NĐ-CP của Chính phủ về quy định trách nhiệm của bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật; Chính phủ có tờ trình số 11/TTr-CP ngày 11/2/2011 trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tỷ lệ nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khóa XIII nhiệm kỳ 2011 – 2016. Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ - CEDAW.  [6] Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. [7] Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất