Năm Canh Dần (1890), tại Nam Đàn tỉnh Nghệ An, một gia đình nhà nho trí
thức yêu nước nghèo đã sinh ra cậu bé Nguyễn Sinh Cung, sau này là Nguyễn ái
Quốc-Hồ Chí Minh, người đã khai sinh ra nền dân chủ cộng hoà Việt Nam. Thời thơ
ấu và niên thiếu, Nguyễn Sinh Cung sớm bộc lộ tư chất thông minh và ham học,
lại được thụ giáo các bậc túc nho, giàu lòng yêu nước. Năm 11 tuổi thân phụ-ông
Nguyễn Sinh Sắc-đã đặt tên mới cho Cung là Nguyễn Tất Thành.
Năm Nhâm Dần (1902), Thành tiếp tục học chữ nho. Tính đến năm 1905 (15
tuổi) Thành đã có khoảng 10 năm được giáo dục và rèn luyện Hán học mà chủ yếu
là nền nho giáo thấm nhuần tinh thần yêu nước của Việt Nam. Tiếp đó
Thành theo học tiếng Pháp tại trường tiểu học Pháp-Việt ở thành phố Vinh. Sau
đó Thành theo học trường Quốc học Huế, rồi theo cha đến Quy Nhơn (1909), được
cha cho học thêm tiếng Pháp với thầy Phạm Ngọc Thọ (thân sinh cố Bộ trưởng Bộ Y
tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau này).
Như
vậy là đến năm 1911, khi xuất dương tìm đường cứu nước, Bác Hồ của chúng ta
không phải chỉ với hai bàn tay trắng mà Người đã có một vốn học vấn cơ bản khá
quan trọng. Đó là lòng yêu nước và tinh hoa văn hoá dân tộc, Hán học thông thạo
và tiếng Pháp đủ để giao tiếp công việc.
Năm Giáp Dần (1914), sau khi qua Pháp, Mỹ và một số nước Châu Phi, Nguyễn
Tất Thành đã đến Luân Đôn, thủ đô nước Anh làm các việc lao động phổ thông rất
cực nhọc (quét tuyết, làm phụ bếp…) để kiếm sống và lấy tiền thuê giáo viên dạy
tiếng Anh. Thành đã dồn sức cho việc học ngoại ngữ, dùng nó làm chìa khoá mở
kho tàng kiến thức của nền văn hoá phương Tây-nơi khai sinh ra các tư tưởng dân
chủ tư sản tiến bộ, nơi phát minh ra nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến và cũng
là quê hương của các cường quốc đế quốc, thực dân, đồng thời cũng là nơi khởi
phát các tư tưởng XHCN và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Nhờ vậy,
Nguyễn Tất Thành đã tiếp thụ, trưởng thành về nhiều mặt chính trị, tư tưởng,
văn hoá, đặc biệt Nguyễn Tất Thành có một nhãn quan chính trị khá sắc sảo. Ngay
thời điểm đó, anh đã viết thư cho cụ Phan Chu Trinh ở Pháp, đưa ra những nhận
xét về cuộc chiến tranh thế giới đang diễn ra và dự đoán những biến đổi của
tình hình trong thời gian tới.
Và
cũng chính ở nơi đây, năm 1919, Nguyễn Tất Thành đã gia nhập Đảng Xã hội Pháp
và lấy tên mới là Nguyễn ái Quốc.
Năm Bính Dần 1926, Nguyễn ái Quốc hoạt động ở Trung Quốc với bí danh là
Vương Đạt Nhân. Người được mời dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 Quốc dân
đảng (Trung Hoa). Trong phát biểu tại đại hội, Người đã kêu gọi: “Tất cả các
dân tộc bị áp bức hễ cùng bị chủ nghĩa đế quốc áp bức thì phải cùng nhau liên
hiệp lại… Không phân biệt nước nào, dân tộc nào, tất cả hãy đứng lên chống kẻ
thù chung của chúng ta”(1). Cũng năm này, Người đã viết bài “Lê-nin và phương
Đông” đăng trên báo Gudok (Tiếng còi) ở Mát-xcơ-va, nhân kỷ niệm ngày mất của
V.I.Lê-nin. Trong bài viết Người khẳng định: “V.I.Lênin là người đầu tiên đã
đặt cơ sở cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các thuộc địa…”(2).
Nhận thấy cần phải đào tạo ngay từ bấy giờ một lớp cán bộ trẻ kế tục sự nghiệp
cách mạng lâu dài, Nguyễn ái Quốc đã đề nghị Uỷ ban Thiếu nhi Liên Xô giúp đỡ
nhận một nhóm thiếu nhi Việt Nam sang học tập ở Mát-xcơ-va, sau đó, đưa họ về
nước tổ chức giác ngộ quần chúng gây dựng phong trào cách mạng. Theo đó lại
tiếp tục tuyển chọn đưa thanh niên trong nước ra ngoài nước học tập để đào tạo
gấp cán bộ cho phong trào. Cũng thời gian này (1921-1926), Nguyễn ái Quốc đã
viết và cho in một loạt bài bằng tiếng Pháp trên các báo ở Pa-ri và Mát-xcơ-va
(sau này Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội tập hợp và in thành sách lấy tên là “Đây
công lý của thực dân Pháp” không những lên án tội ác dã man đáng ghê tởm và căm
ghét của thực dân Pháp trước công luận toàn thế giới mà còn phản ánh tinh thần
đấu tranh quật cường, bất khuất, vô cùng anh dũng của nhân dân Đông Dương. Tác
phẩm này thực sự là một di sản văn hoá có sức sống trường tồn cùng lịch sử.
Năm Mậu Dần (1938), một trong những năm cam go nhất trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh. Nhưng cùng với thời gian và qua diễn biến của
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế cũng như thực tiễn cách mạng nước ta từ
khi Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2-1930) cho đến năm 1940
khi Người chuẩn bị về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng chuẩn bị cho cuộc Tổng
khởi nghĩa tháng 8-1945 thì lại càng chứng tỏ sự vượt trội về lý luận cách mạng
và tầm nhìn xa của Người so với các đồng chí trong nước cũng như quốc tế cùng
thời. Thời gian này cách ứng xử của Hồ Chí Minh đã để lại cho hậu thế mẫu mực
về tinh thần hy sinh cá nhân để giữ gìn đoàn kết trong Đảng vì lợi ích tối cao
của dân tộc. Đồng thời cũng bộc lộ một nhân cách lớn-nhân cách Hồ Chí Minh và
cũng chính trong khó khăn, thử thách ấy Hồ Chí Minh đã chứng tỏ mình là một
chuẩn mực văn hoá-chính trị kiệt xuất.
Năm Canh Dần (1950), năm Canh Dần này, Hồ Chí Minh đã là tác giả của hai
sự kiện có tính phát triển đột biến đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam:
Một
là, giành thắng lợi ngoại giao to lớn nhất, chưa từng có trong lịch sử dân tộc,
hai nước lớn bậc nhất thế giới là Liên Xô và Trung Hoa, rồi tiếp theo là hàng
loạt nước ở Đông Âu, công nhận và kiến lập ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Nhân dịp này, Người đã ra lời tuyên bố gửi chính phủ tất cả các nước:
“Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn
thể nhân dân Việt Nam.
Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt
quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền
lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình
và xây đắp dân chủ thế giới”(3).
Hai
là, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp do Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch lãnh
đạo giành thắng lợi, có ý nghĩa chiến lược về mặt quân sự. Ta đánh bại mọi ý đồ
bao vây, tiêu diệt đầu não cuộc kháng chiến của thực dân Pháp, biên giới phía
bắc Việt Nam
được giải phóng, nối liền nước ta với Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Âu.
Trước
những thắng lợi to lớn, Hồ Chí Minh đã chú trọng công tác giáo dục tư tưởng,
Người khuyên thắng không được kiêu ngạo, chủ quan mà phải tỉnh táo, nghiêm khắc
rút kinh nghiệm, thấy rõ những hạn chế và khuyết điểm của mình mà khắc phục,
đặc biệt là phải chỉnh đốn đoàn thể (Đảng), chính quyền và quân đội...
Cũng
chính dịp này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một nhận định và một dự báo chính
xác về thời cuộc khi trả lời nhà báo Lê-ô Phi-ghe (Léo Figuères) về việc đế
quốc Mỹ can thiệp vào Việt Nam: “Việc can thiệp đó có tính chất xâm lược, phản
dân chủ và không Mỹ chút nào. Nhất định đế quốc Mỹ sẽ thất bại như ở Trung Hoa
trước đây”(4).
Năm
Canh Dần này còn có một sự kiện đặc biệt in đậm dấu ấn thiên tài của Hồ Chí
Minh-người sáng lập và xây dựng một Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam khi
Người cùng Trung ương chuẩn bị cho việc triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ hai của Đảng, quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai và đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Lao động Việt Nam. Phát biểu về việc đổi tên
Đảng, Người đã nhấn mạnh “Đó là điều cần thiết..., bởi vì có như thế mới tập
hợp được tất cả các phần tử tiên tiến trong công nông, trí thức vào Đảng... dễ
kêu gọi dân tộc hơn, vì ta đang cần đoàn kết rộng rãi với các tầng lớp”(5).
Ngày nay đọc lại các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 cùng với
sự trải nghiệm của lịch sử, chúng ta lại càng thêm tự hào vì Đảng ta đã có được
một người đứng đầu sáng suốt, người có khả năng đưa ra được những quyết định
lịch sử và có tầm chiến lược dài lâu đến thế.
Năm Nhâm Dần (1962), năm này Bác đã 72 tuổi, không ai có thể ngờ rằng đây
lại là năm Dần cuối cùng của cuộc đời Bác. Người xưa vẫn thường nói, tạo hoá
cho người ta tuổi già để được an nhàn nhưng với Bác Hồ-một người lính già vâng
mệnh lệnh quốc dân-tuổi đã cao, sức khoẻ có giảm, song lòng già Hồ lại đang
nhiều nỗi ưu lo về vận mệnh tương lai của nước nhà. Người lo nhất là tình trạng
mất dân chủ và tệ quan liêu, lãng phí, tham ô vì những cái đó làm hại dân, hại
nước, là những hành vi có tội với nhân dân. Người yêu cầu “Ai cũng phải chống.
Giáo dục không đủ, phải có kỷ luật, có thưởng, có phạt... phải làm từ trên
xuống, dưới lên dân chủ và phải trường kỳ... Đối tượng này là con người, mà con
người có tổ chức cao nhất là đảng viên. Các đồng chí phụ trách chi bộ phải làm
cho đúng, phải làm cho chi bộ vững. Trung ương có hội, có nghị, có quyết mà
không hành là do mình không cương quyết. Phải có quyết tâm làm cho tốt”(6).
Người lo nhiều đến chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Người yêu cầu: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam phải làm sao đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân, đoàn kết tốt
được các đảng phái, các đoàn thể nhân dân và nhân sĩ, đoàn kết các dân tộc anh
em, giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, nhằm huy động mọi lực lượng
của nhân dân cùng nhau xây dựng Tổ quốc”(7). Người nhấn mạnh Đảng và Nhà nước
phải tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân vì nhân dân ta rất tốt, rất trung thành
với Đảng nhưng bản thân Đảng và Nhà nước phải biết cách lãnh đạo và đảng viên,
cán bộ phải gương mẫu. Chính vì vậy mà Người lo lắng nhiều đến công tác tổ chức
và cán bộ. Trong phiên họp Bộ Chính trị ngày 23-10-1962, Người đã phát biểu,
nhấn mạnh rằng: Tổ chức trước hết là con người. Cán bộ phải có trách nhiệm với
dân, với nước; lên xuống không sao, đi đâu cũng được... Đâu cần thì cán bộ có,
đâu khó thì cán bộ đến(8). Người còn nói với cán bộ cao cấp về tầm quan trọng
phải thực hiện cho nghiêm chỉnh và có kết quả thiết thực Cuộc vận động nâng cao
ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, chống tham ô, lãng
phí, quan liêu vì: “Cuộc vận động này là một cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc
đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách
mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là tệ nạn tham ô,
lãng phí, quan liêu... Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự
phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa
công việc ngày càng tiến bộ, chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ
quần chúng phê bình”(9).
Những
điều Người lo lắng và căn dặn ngày ấy vẫn đang có ý nghĩa thời sự sâu sắc với
hôm nay.
Mùa
xuân mới đã về, ôn lại những việc Bác làm, những lời Bác dạy, chúng con càng
thêm nhớ Bác, nhủ mình nhắc bạn gắng làm theo lời Bác.
_____
(1,
2) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXBCTQG, H.2000, tr.217, 219. (3, 5) Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, tập 4, tr.394, 425. (4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6,
NXBCTQG, H.2000, tr.92. (6, 7, 8, 9) Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 8,
tr.197, 290, 309, 268.
Trần Đình Huỳnh