Phát huy lợi thế, tiềm năng là định chế tài chính lớn hàng đầu Việt Nam; hệ thống mạng lưới toàn quốc; đội ngũ lao động đông đảo, cần cù, nghiệp vụ ngày càng vững vàng; lợi thế về màng lưới, công nghệ, thị phần trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn... Những năm qua, Đảng ủy Agribank đã đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo Agribank nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đồng bộ các giải pháp, hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh gắn với tập trung lãnh đạo thực hiện Đề án tái cơ cấu.
Triển khai Quyết định số 53/QĐ-NHNN.m của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Đảng ủy đã ban hành Nghị quyết chuyên đề chỉ đạo thực hiện; HĐTV ban hành Nghị quyết số 450/NQ-HĐTV phê duyệt các phương án triển khai quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, phân công cụ thể trách nhiệm và thời gian xây dựng, trình các phương án thành phần và một số giải pháp trọng tâm triển khai Đề án tái cơ cấu Agribank giai đoạn 2013-2015.
Trong triển khai Đề án tái cơ cấu theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN, Agribank đã tập trung mọi nguồn lực, thực hiện lộ trình cơ cấu lại bộ máy tổ chức và hoạt động kinh doanh. Kết hợp việc trình NHNN, Chính phủ các vấn đề thuộc thẩm quyền của chủ sở hữu với việc chủ động xử lý các nội dung thuộc thẩm quyền của Agribank như cơ cấu lại nợ, xử lý tài chính, sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế nghiệp vụ, xử lý, sắp xếp cán bộ... từng bước ổn định, phát triển kinh doanh.
Phân tích kỹ những khó khăn, vướng mắc khi triển khai Đề án tái cơ cấu; Đảng ủy, HĐTV chỉ đạo các giải pháp triển khai cơ cấu trên tất cả các mặt hoạt động, hệ thống cơ chế nghiệp vụ đã được chỉnh sửa, bổ sung, ban hành mới tương đối hoàn thiện, bảo đảm yêu cầu trong hoạt động kinh doanh; tích cực triển khai thực hiện các phương án đã dược phê duyệt; chủ động thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực tài chính, sắp xếp lại các công ty trực thuộc, cơ cấu lại tổ chức quản trị, điều hành.
Đảng ủy, HĐTV đã lãnh đạo Agribank đã hoàn thiện 8 phương án chi tiết tái cơ cấu trình NHNN: Phương án sắp xếp lại mạng lưới hoạt động; phương án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sắp xếp lại lao động; phương án bổ sung vốn tự có để đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động; phương án xử lý nợ xấu; phương án sắp xếp lại các công ty trực thuộc; phương án mở rộng và nâng cao hiệu quả công nghệ thông tin; phương án phát triển dịch vụ ngân hàng tiện ích; phương án cơ cấu lại tổ chức quản trị, điều hành, hệ thống kiểm toán nội bộ, kiểm soát nội bộ.
Thực hiện Đề án tái cơ cấu, Đảng ủy tập trung lãnh đạo thực hiện tốt các nội dung chính sau:
Thứ nhất, tập trung cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, lĩnh vực xuất khẩu, công nghiệp chế biến, DN nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện Đề án tái cơ cấu, Agribank có đề án xây dựng sản phẩm, dịch vụ tiện ích phục vụ khách hàng tốt hơn, mạng lưới rộng gồm 3.300 điểm giao dịch, 2.500 ATM và khoảng 15.000 điểm chấp nhận thẻ (POS).
Đến năm 2015 đạt tỷ lệ cho vay lĩnh vực này khoảng 80% dư nợ, riêng dư nợ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân khoảng 70%; Agribank tiếp tục là ngân hàng đầu tiên khởi xướng và luôn giữ vai trò chủ lực về cho vay nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Bám sát và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước Agribank chủ động triển khai nhiều giải pháp huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm đáp ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế mà trọng tâm là đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa, cho vay phát triển sản xuất kinh doanh đối với các đối tượng nông nghiệp, nông dân, nông thôn, hướng tới xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại. Dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn trên tổng dư nợ cho vay nền kinh tế tăng ổn định qua các năm (năm 2011 chiếm tỷ trọng trên 60%; năm 2012 là gần 70%; năm 2013 là trên 70%). Đến 2014, dư nợ cho vay nền kinh tế của Agribank tăng gấp 1,3 lần so với năm 2010, tốc độ tăng bình quân 7,5%/năm. Đến cuối tháng 6-2015, dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn là 426.047 tỷ đồng, đạt 74,8% và sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng trong những năm tới. Agribank góp phần quan trọng tạo công ăn, việc làm mới cho nông dân; đổi mới và phát triển các loại hình dịch vụ cho sản xuất và tiêu thụ hàng hóa phục vụ việc nâng cao đời sống dân cư nông thôn. Triển khai thỏa thuận hợp tác và thực hiện cho vay đối với các đơn vị đầu mối là các tập đoàn, tổng công ty hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn gắn với bán chéo các SPDV ngân hàng. Cung ứng đủ vốn đầu tư giúp người dân có vốn để sản xuất kinh doanh, đẩy lùi cho vay nặng lãi, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, tăng mức sống. Hàng năm có hàng triệu lượt hộ được vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu dùng, xây dựng sửa chữa nhà cửa, mua sắm phương tiện, tạo lập hàng triệu việc làm, thoát nghèo và làm giàu từ chính các sản phẩm nông nghiệp.
Thông qua các tổ chức chính trị, xã hội (Hội nông dân, Hội phụ nữ, Tổ nhóm vay vốn...), Agribank tạo lập kênh dẫn vốn đến với nông nghiệp, nông dân, nông thôn có hiệu quả, nâng cao năng suất lao động, các hộ trong tổ nhóm liên kết giúp đỡ nhau trong sản xuất, sử dụng vốn có hiệu quả để nâng cao thu nhập, tạo tính cộng đồng ngày càng gắn bó, tạo niềm tin của người dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ và cấp uỷ, chính quyền các địa phương, Agribank đã xây dựng kế hoạch hành động hưởng ứng phong trào thi đua "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới", đến 30-6-2015 đã mở rộng cho vay lên 8.985 xã trên phạm vi toàn quốc; với tổng số 2.417.656 khách hàng vay, dư nợ 233.840 tỷ đồng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, nâng cao điều kiện sống của người dân nông thôn.
Thứ hai, tập trung xử lý nợ xấu, giảm tỷ lệ nợ xấu về mức tiêu chuẩn; tăng vốn tự có đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động; thực hiện thoái vốn tại các công ty con hoạt động không phục vụ trực tiếp cho nông nghiệp, nông thôn. Trong giai đoạn 2010-2014 nợ xấu của Agribank gia tăng, (tỷ lệ nợ xấu các năm lần lượt là 3,75%; 6,1%; 5,69%; 4,69%; 4,55%). Bình quân nợ xấu cả nhiệm kỳ 4,82%. Từ năm 2013 trở về trước, nợ xấu tăng chủ yếu là do tín dụng tăng trưởng nóng, năng lực tài chính các doanh nghiệp hạn chế, dựa chủ yếu vào nguồn vốn vay ngân hàng, khi Nhà Nước thay đổi chính sách tài khóa và tiền tệ chặt chẽ, nợ xấu tăng lên; bên cạnh đó, việc quản lý chất lượng tín dụng của Agribank còn nhiều tồn tại, yếu kém.
Đảng ủy chỉ đạo HĐTV, TGĐ ban hành kịp thời các cơ chế, chính sách liên quan đến phân loại nợ, xếp hạng tín dụng nội bộ, trích lập dự phòng, XLRR tín dụng và thu hồi nợ đã XLRR theo yêu cầu thực tế và đáp ứng các quy định của NHNN; Tăng cường, nâng cao chất lượng cảnh báo nợ xấu, nợ tiềm ần rủi ro.
Việc phân loại nợ đã đáp ứng được đầy đủ các quy định của NHNN, phản ánh đúng thực trạng nhóm nợ qua các năm; thông qua việc giám sát kết quả phân loại nợ, kiểm tra biến động số trích lập dự phòng rủi ro toàn hệ thống, Agribank đã thực hiện đảm bảo việc trích lập dự phòng rủi ro đúng, đủ theo quy định của NHNN; triển khai đầy đủ các nguyên tắc và hồ sơ XLRR theo đúng các quy định về sử dụng dự phòng để XLRR (từ 2010-30-6-2015, đã XLRR 37.337 tỷ đồng); hằng năm đều tổ chức phân tích, đánh giá phân loại khách hàng, xây dựng kế hoạch thu hồi nợ; giao chỉ tiêu thu hồi nợ đến từng cá nhân, bộ phận có liên quan; gắn trách nhiệm với kết quả thu hồi nợ trong việc chi lương, thưởng và công tác thi đua, quyết toán tiền lương, tiền thưởng theo kết quả thu hồi. Triển khai các biện pháp nỗ lực để thu hồi nợ như đôn đốc khách hàng trả nợ, miễn giảm lãi, xử lý tài sản, khởi kiện… tổng thu nợ đã XLRR lũy kế đến 30-6-2015 đạt 60,1% kế hoạch (14.166/23.554 tỷ đồng); Bán nợ cho VAMC 39.885 tỷ đồng. Hiện Agribank đã thiết lập cơ chế giám sát hàng ngày kết quả kinh doanh của các đơn vị thông qua hệ thống online, giám sát từng khoản một và kịp thời cảnh báo. Tất cả các chi nhánh đều có phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ.
Thứ ba, cơ cấu lại tổ chức bộ máy, đặc biệt là hệ thống kiểm tra kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sắp xếp lại lao động. Tiếp tục mở rộng mạng lưới tại địa bàn nông thôn, nơi có điều kiện kinh doanh theo yêu cầu về phục vụ và chỉ đạo của chính quyền địa phương…
Đảng ủy lãnh đạo Agribank chú trọng khâu tuyển dụng đầu vào, đảm bảo chất lượng và phù hợp với vị trí. Việc đào tạo cũng được đặc biệt quan tâm, đào tạo cả nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, thông qua các khóa học và thông qua thực tế. Agribank áp dụng cơ chế khoán công việc, khoán tài chính của người lao động, để phản ánh năng lực của họ. Và quan trọng là lựa chọn người đứng đầu có nghề về ngân hàng, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và năng lực điều hành.
Xác định người lao động là chủ thể quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh lâu dài của hệ thống, Agribank luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống, phấn đấu bảo đảm tốt nhất thu nhập cho người lao động. Agribank đã ban hành quy chế tuyển dụng lao động trong hệ thống bảo đảm công khai, rõ ràng, minh bạch, đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như nhu cầu hoạt động kinh doanh. Nhằm khuyến khích người lao động, nâng cao năng suất lao động, tiền lương được gắn với hiệu quả công việc, Agribank đã ban hành quy chế trả lương để thúc đẩy, khuyến khích được người lao động tăng năng suất và chất lượng lao động; nâng cao việc sử dụng và bố trí lao động hợp lý, có chế độ đãi ngộ đối với những lao động hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thu hút được lao động giỏi. Trong nhiệm kỳ, đã 2 lần sửa đổi bổ sung, ban hành mới quy chế thi đua khen thưởng trong hệ thống.
Người lao động làm việc trong hệ thống Agribank đều được ký hợp đồng lao động và đảm bảo đầy đủ quyền lợi theo quy định của Bộ luật Lao động: tiền lương, BHXH, BHYT và các chế độ khác. Chính sách hỗ trợ và trao tặng quà đối với cán bộ viên chức khi nghỉ hưu là sự quan tâm đặc biệt, là một chính sách ưu việt của Agribank, bản thân người lao động, ngoài được hưởng đầy đủ các chế độ theo quy định, đồng thời còn được hỗ trợ ổn định cuộc sống và ghi nhận sự đóng góp với Ngành.
Về cơ bản mọi lĩnh vực hoạt động của Agribank đều có quy chế, quy định, quy trình hướng dẫn cụ thể; coi trọng tạo lập hành lang pháp lý nội bộ và công cụ trong quản trị, điều hành, kiểm tra, giám sát hoạt động. Công tác quản trị, điều hành luôn được quan tâm và không ngừng đổi mới, kiện toàn; nâng cao vai trò chủ động sáng tạo của cơ sở, có sự kiểm tra, kiểm soát nội bộ chặt chẽ.
Agribank luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiên tiến, là ngân hàng đầu tiên hoàn thành Dự án Hiện đại hóa hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng (IPCAS) do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ. Với hệ thống IPCAS đã được hoàn thiện, Agribank đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, với độ an toàn và chính xác cao đến mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước. Trong số trên 200 sản phẩm dịch vụ hiện có, nhiều sản phẩm dịch vụ của Agribank như: Thanh toán trong nước, Thu ngân sách, Thẻ, Mobile Banking, Chuyển và nhận tiền (Agri-Pay), Kiều hối… được đông đảo khách hàng ưa dùng bởi lợi thế về uy tín, mạng lưới và công nghệ, làm nên thương hiệu của Agribank. Hiện nay, Agribank đang có hàng triệu khách hàng là hộ sản xuất, hàng chục ngàn khách hàng là doanh nghiệp.
Kết quả khả quan trong lãnh đạo kinh doanh và thực hiện Đề án tái cơ cấu đã đưa uy tín, thương hiệu của Agribank lên một bước tiến mới. Đảng bộ Agribank xác định tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức hoạt động, nâng cao năng lực lãnh đạo, đoàn kết cùng tập thể Ban lãnh đạo, cán bộ, đảng viên, người lao động xây dựng Agribank thành ngân hàng hiện đại, hướng tới chuẩn mực quốc tế và khu vực, phù hợp với yêu cầu phát triển hệ thống ngân hàng và kinh tế xã hội của cả nước; nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tiền tệ, tín dụng ở nông thôn, đáp ứng nhu cầu vốn vay có hiệu quả phục vụ sản xuất nông nghiệp; cung ứng SPDV chất lượng cao, hoạt động kinh doanh tăng trưởng, an toàn, hiệu quả, bền vững, tiếp tục giữ vai trò chủ lực, là người bạn đồng hành thân thiết với nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Tùng Lâm