Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận Tổ quốc
Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo đất nước, từ đó dễ dẫn đến các nguy cơ thoái hóa, biến dạng quyền lực trong các cơ quan nhà nước như quan liêu, độc đoán, đặc quyền, tham nhũng, bè phái, mất dân chủ… Vì thế, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam là yêu cầu có tính cấp thiết hiện  nay.

Để đổi mới, Đảng phải quan tâm hơn nữa trong lãnh đạo, đề cao vị trí, vai trò của MTTQ, đặc biệt là vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử cũng như đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.  

Từ những tồn tại  

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, MTTQ và các đoàn thể nhân dân đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, từ đó tập hợp khối đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên thực tế hiện nay vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận nhưng chậm được khắc phục.   

Nhận thức của một số cấp ủy đảng về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận chưa đầy đủ và toàn diện, còn coi nhẹ công tác mặt trận. Từ đó chưa chú ý tạo điều kiện để MTTQ và các đoàn thể hoạt động. Việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác Mặt trận còn chậm. Ví dụ khi Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Quyết định số 217-QĐ/TW về quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218- QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định về việc MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhưng các cấp ủy đảng chậm hướng dẫn triển khai, chưa quan tâm chỉ đạo chính quyền ban hành cơ chế, chính sách cụ thể tạo điều kiện cho mặt trận tổ chức thực hiện. Tổ chức bộ máy của cơ quan mặt trận từ Trung ương đến các địa phương còn nhiều bất cập, biên chế cán bộ chuyên trách ít, chưa tương xứng với nhiệm vụ hiện nay. Đội ngũ cán bộ làm chuyên trách công tác mặt trận ở một số địa phương chưa thích hợp, thường điều động những cán bộ còn có mặt hạn chế, không được đạo tạo cơ bản từ các cơ quan đảng, chính quyền sang làm việc. Từ Trung ương đến các địa phương hiện nay chưa có một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận. Hầu hết cán bộ mặt trận làm theo kiểu “kinh nghiệm chủ nghĩa”, rập khuôn, máy móc, ít sáng tạo.  

Đến giải pháp để đổi mới  

Thứ nhất, phải nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn thể nhân dân theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011): “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cần được đề cao hơn nữa, khắc phục được tình trạng coi hoạt động của tổ chức mặt trận là hình thức; không tạo điều kiện về tổ chức, cán bộ và các cơ chế khác cho mặt trận hoạt động.          

Thứ hai,
tiếp tục thể chế hóa một số nội dung về chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước về vấn đề Đảng cầm quyền và lãnh đạo xã hội. Trước hết là thể chế hóa nội dung trong Điều 4 Hiến pháp năm 2013: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nghiên cứu, xây dựng luật về tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó quy định cụ thể về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung và với MTTQ Việt Nam nói riêng. Nghiên cứu và quy định cụ thể giữa hai tổ chức đảng hiện nay là đảng đoàn và đảng ủy trong cơ quan của mặt trận cấp Trung ương và tỉnh. Đảng đoàn là do Ban Chấp hành Trung ương thành lập theo quy định của Điều lệ Đảng nhưng các thành viên tham gia là do chỉ định mà không thông qua bầu cử. Bí thư đảng đoàn là đồng chí chủ tịch MTTQ, chủ tịch các đoàn thể chính trị - xã hội. Nhưng đảng ủy là do đại hội đảng bộ nhiệm kỳ cơ quan bầu ra; bí thư đảng ủy thường do đồng chí phó chủ tịch mặt trận hoặc phó chủ tịch các đoàn thể chính trị - xã hội đảm nhiệm. Như vậy, vô hình chung coi đảng ủy là cấp dưới của đảng đoàn, nên sự phối hợp trong lãnh đạo giữa hai tổ chức đảng này mang tính hình thức. Từ đó có thể đề xuất nhập hai tổ chức đảng này là một, gọi là đảng ủy (lãnh đạo toàn diện, như Đảng ủy Quân sự, Đảng ủy Công an…), hoặc quy định đảng ủy là cấp dưới, chịu sự lãnh đạo của đảng đoàn.          

Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặc dù chức năng, nhiệm vụ của mặt trận đã được thể hiện khá đầy đủ trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và luật MTTQ Việt Nam, nhưng nhìn chung việc thực hiện trong thực tế đạt hiệu quả chưa cao, các kết luận, kiến nghị sau hiệp thương dân chủ, sau giám sát và phản biện xã hội còn chưa được tiếp thu và xử lý thỏa đáng. Để khắc phục tình trạng này, nhằm tăng cường vai trò của mặt trận trong công tác xây dựng đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì cần phải mạnh dạn “trao quyền lực” nhất định cho mặt trận. Điều đó có nghĩa là: Những chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng, Nhà nước trước khi thông qua đều phải có ý kiến phản biện, đồng thuận (điều kiện bắt buộc) của mặt trận sau khi mặt trận tổ chức các hội nghị hiệp thương dân chủ và phản biện xã hội; các kết luận, kiến nghị sau giám sát của mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội đều phải được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm giải quyết thỏa đáng, phản hồi lại cho mặt trận và nhân dân. Các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm việc kiểm tra, giám sát hoạt động của mặt trận, tiến hành đánh giá, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Đảng chỉ đạo về công tác đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể nhân dân.          

Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ của Đảng trong hệ thống mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là “chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ mặt trận và các đoàn thể… Cử những cán bộ đủ tiêu chuẩn sang công tác mặt trận và đoàn thể theo chủ trương luân chuyển cán bộ, qua đó phát hiện những cán bộ tốt để bồi dưỡng, đề bạt vào những cương vị lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước”. Đảng lãnh đạo mặt trận và các đoàn thể nhân dân bằng công tác cán bộ, do vậy cần có giải pháp để bố trí cán bộ mặt trận và các đoàn thể nhân dân đảm bảo những tiêu chuẩn cụ thể, vừa vững vàng chính trị, có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực chuyên môn cao. Thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ mặt trận và các đoàn thể bình đẳng như cán bộ làm công tác đảng, công tác chính quyền, luân chuyển ngang từ các cơ quan cùng cấp và luân chuyển dọc từ Trung ương tới các địa phương. Đồng thời xây dựng Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ mặt trận, nhằm đào tạo có hệ thống và bồi dưỡng nghiệp vụ công tác mặt trận cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.         

Thứ năm, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, mặt trận và xã hội, Đảng phải thường xuyên thực hiện các giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Bản thân Đảng phải tự mình thường xuyên chỉnh đốn về mặt tổ chức và xây dựng lực lượng đảng viên trong sạch, vững mạnh. Trước mắt, tập trung vào thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đấu tranh có hiệu quả với nạn tham nhũng và lãng phí, mà nó chính là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ tồn vong của chế độ như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã nêu: “Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tăng thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng, đi theo Đảng để thực hiện công cuộc đổi mới.  

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất