Tiếp tục quán triệt, hoàn thiện Chiến lược cán bộ và nhiệm vụ đề ra tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ” và Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ, Bộ Nội vụ, ngành Nội vụ tích cực thể chế hóa Nghị quyết số 26-NQ/TW thành các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức (CBCC).
1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức
Công tác đánh giá và xếp loại CBCC luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, xác định là nhiệm vụ trọng tâm của công tác cán bộ. Trên cơ sở quy định của Đảng và Luật cán bộ, công chức, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09-6-2015 quy định về công tác đánh giá, xếp loại CBCC (sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27-7-2017), tạo cơ sở pháp lý cho công tác đánh giá, xếp loại CBCC theo quy trình, thủ tục chặt chẽ hơn với các tiêu chí và mức đánh giá, xếp loại tương đối cụ thể theo các cấp độ đánh giá khác nhau; đồng thời đánh giá CBCC được tổ chức đa chiều và bằng nhiều hình thức đã góp phần nâng cao chất lượng đánh giá, xếp loại CBCC, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chính xác, khách quan, là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền thực hiện chính sách đối với CBCC.
Tuy nhiên, việc đánh giá, xếp loại CBCC còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với quá trình đổi mới phương thức quản lý CBCC từ hệ thống chức nghiệp sang vị trí việc làm; việc đánh giá, xếp loại CBCC vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi, như Nghị quyết số 26-NQ/TW đã chỉ ra. Công tác thể chế hóa thành pháp luật còn nhiều hạn chế, yếu kém, như:
Một là, chưa tạo đủ hành lang pháp lý cho việc đánh giá kết quả thực hiện công việc theo vị trí việc làm, chưa thực sự căn cứ vào tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và hiệu quả công việc thực tế của mỗi người, từ đó dẫn đến sự cào bằng trong công tác đánh giá CBCC, chưa tạo động lực trong việc rèn luyện, phấn đấu của CBCC và chưa có đủ cơ sở để loại bỏ những người không hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi bộ máy.
Hai là, còn thiếu những tiêu chí về định lượng trong đánh giá, xếp loại CBCC, dẫn đến những vướng mắc trong quá trình thực hiện và phản ánh không đúng thực trạng mức độ hoàn thành công việc của CBCC.
Ba là, chưa đề cao trách nhiệm, vai trò của người đứng đầu trong công tác đánh giá, xếp loại CBCC dẫn đến tình trạng đánh giá, xếp loại CBCC còn bị động, chưa căn cứ vào đặc điểm, thực tế của cơ quan, tổ chức, đơn vị và đặc thù công việc của từng ngành, nghề, lĩnh vực.
Bốn là, các quy định về xếp loại, đánh giá CBCC còn có sự khác nhau giữa văn bản của Đảng và văn bản pháp luật, giữa các loại CBCC và giữa CBCC với viên chức, trong khi đó, công tác cán bộ được xác định là công tác của Đảng, cần bảo đảm sự tập trung, thống nhất.
Năm là, chưa đề cao việc sử dụng kết quả đánh giá, xếp loại CBCC trong quản lý đội ngũ CBCC, dẫn đến việc đánh giá nhiều nơi, nhiều lúc còn hình thức, không thực chất.
Từ những yếu kém, hạn chế nêu trên, việc hoàn thiện đánh giá, xếp loại CBCC trong thời gian tới phải đảm bảo các mục đích: thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về công tác đánh giá, xếp loại CBCC nêu trong Nghị quyết số 26-NQ/TW và Quy định số 89-QĐ/TW về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Phải khắc phục được các hạn chế, bất cập trên thực tế, đặc biệt chú trọng đi vào chiều sâu và thực chất, tránh hình thức, giảm thủ tục hành chính, tạo sự liên thông trong công tác đánh giá, xếp loại CBCC trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể; tạo cơ sở pháp lý cho việc đánh giá, xếp loại CBCC được tiến hành thực chất, là căn cứ để thực hiện công tác quản lý CBCC.
Để đạt mục đích đó, cần quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng trong công tác quản lý CBCC nói chung và công tác đánh giá, xếp loại CBCC nói riêng, đặc biệt là nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ. Đổi mới công tác đánh giá theo hướng: xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Bảo đảm tính đồng bộ, liên thông, nhất quán trong công tác đánh giá, xếp loại của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, phù hợp với thực tế của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị; tiêu chí đánh giá phải sát hợp với từng chức danh, vị trí việc làm, phản ánh được chính xác phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác. Tiêu chí đánh giá, quy trình, thủ tục, phương pháp đánh giá phải kế thừa những ưu điểm và tiếp tục đổi mới để khắc phục nhược điểm hiện nay, bảo đảm tính khoa học, công khai, minh bạch, công tâm, khách quan; làm rõ ưu điểm, khuyết điểm của cán bộ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể, cá nhân; dễ hiểu, dễ làm, dễ thực hiện, tránh phát sinh những hiện tượng tiêu cực; không cầu toàn, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bổ sung và hoàn thiện.
Từ mục đích, quan điểm nêu trên, việc hoàn thiện pháp luật về đánh giá, xếp loại CBCC cần tập trung ưu tiên một số nội dung trọng tâm, trọng điểm như sau:
Thứ nhất, sửa đổi quy định về mức đánh giá cán bộ, công chức.
Quy định số 89-QĐ/TW đã quy định việc xếp loại hiện nay có 4 mức: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ; hoàn thành nhiệm vụ; không hoàn thành nhiệm vụ. Theo đó, cần sửa đổi quy định của pháp luật về đánh giá, xếp loại CBCC theo hướng sử dụng mức “Hoàn thành nhiệm vụ” thay cho mức “Hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực”.
Thứ hai, về tiêu chí đánh giá.
Quy định số 89-QĐ/TW đã quy định cụ thể các tiêu chí chung về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống... và tiêu chí về kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn như: xây dựng và thực hiện chương trình hành động; thực hiện công tác cải cách hành chính; tỷ lệ hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc và CBCC thuộc quyền quản lý... Theo đó, cần phải sửa đổi, hoàn thiện quy định tương ứng của pháp luật về đánh giá, xếp loại CBCC theo hướng quy định rõ những tiêu chí chung và các tiêu chí cụ thể về đánh giá, xếp loại đối với CBCC.
Thứ ba, đổi mới phương pháp đánh giá.
Quy định số 89-QĐ/TW quy định khi đánh giá, xếp loại CBCC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải có ý kiến của cấp ủy nơi cư trú. Theo đó, cần sửa đổi quy định tương ứng của pháp luật về đánh giá, xếp loại CBCC theo hướng bổ sung quy định lấy ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi cư trú đối với CBCC giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Thứ tư, đảm bảo liên thông trong đánh giá CBCC.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 26-NQ/TW “thể chế hoá, cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ theo hướng: đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế” và để bảo đảm sự thống nhất trong công tác đánh giá, xếp loại CBCC và đánh giá, xếp loại đảng viên giúp tiết kiệm thời gian, giảm thủ tục hành chính, cần sửa đổi pháp luật về đánh giá, xếp loại CBCC theo hướng bổ sung nguyên tắc kết quả đánh giá, xếp loại CBCC được sử dụng làm cơ sở liên thông trong đánh giá, phân loại đảng viên, đoàn viên công đoàn.
Thứ năm, về thời điểm đánh giá.
Luật cán bộ, công chức quy định việc thực hiện đánh giá đối với CBCC là hàng năm hoặc trước khi bầu cử, bổ nhiệm... Để có cơ sở đánh giá hàng năm được chính xác, khách quan; đồng thời tạo động lực cho CBCC trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ, cần phải sửa đổi, bổ sung pháp luật về đánh giá, xếp loại CBCC theo hướng bổ sung quy định các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thể tiến hành đánh giá CBCC hàng tháng, hàng quý.
2. Nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức
Để nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ CBCC, đặc biệt trong bối cảnh xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ nhân dân, cần phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về CBCC theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW như sau:
Một là, chuyển mạnh mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng từ tiêu chuẩn ngạch CBCC sang đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công việc và vị trí việc làm. Trên cơ sở Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đào tạo, bồi dưỡng CBCC và các văn bản hướng dẫn thi hành, các bộ, ngành và địa phương cần tích cực, chủ động trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng CBCC để xây dựng đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu tại Nghị quyết số 26-NQ/TW và nhu cầu của bộ, ngành, địa phương.
Hai là, xây dựng, thực hiện cơ chế tổ chức đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt, tạo điều kiện để cơ quan quản lý, sử dụng CBCC và bản thân CBCC có cơ hội được lựa chọn dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng có chất lượng; đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chủ động nâng cao chất lượng. Xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cần tập trung vào đối tượng là CBCC ở tầm chuyên gia hoạch định chính sách, CBCC thừa hành và CBCC cấp cơ sở; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng theo đúng yêu cầu của Nghị quyết số 26-NQ/TW.
Tập trung tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước; đồng thời, để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đảm bảo tỷ lệ CBCC làm việc được trong môi trường quốc tế như chỉ đạo tại Nghị quyết số 26-NQ/TW, phải chú trọng việc đưa CBCC trong diện quy hoạch nguồn đi đào tạo, bồi dưỡng ở các nước có nền hành chính tiên tiến để kết hợp đào tạo kiến thức chuyên môn sâu với nâng cao năng lực và kỹ năng sử dụng ngoại ngữ làm việc trong môi trường quốc tế.
Ba là, nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết số 26-NQ/TW vào công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC trong từng giai đoạn để đảm bảo đội ngũ CBCC được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng thực thi công vụ theo yêu cầu của từng vị trí việc làm; sử dụng thành thạo công nghệ thông tin và ngoại ngữ; nắm vững kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ của lĩnh vực được giao phụ trách và hiểu biết rộng về các lĩnh vực liên quan.
3. Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ và chất lượng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ
Quán triệt quan điểm chỉ đạo: “Chú trọng phát triển nhân lực ngành tổ chức nhà nước tại các bộ, ngành và địa phương; kiện toàn tổ chức các đơn vị và đội ngũ làm công tác dự báo; chế độ tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác dự báo”(1), trong những năm qua, công tác tổ chức, cán bộ đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, về cơ bản đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao. Tuy nhiên, Đảng ta cũng nêu rõ: “Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục... Nhiều vấn đề bất hợp lý trong công tác cán bộ không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời”(2). Nghị quyết số 26-NQ/TW chỉ rõ: “... những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng..., làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”.
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng ta yêu cầu: “Nâng cao phẩm chất, trình độ kiến thức và năng lực của đội ngũ làm công tác cán bộ; có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn những người công tâm, trung thực, trong sáng, có kinh nghiệm làm công tác cán bộ”(3), “… tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về khoa học tổ chức và cán bộ phù hợp với đặc điểm của nước ta trong tình hình mới; kiện toàn hệ thống tổ chức, bộ máy và con người làm công tác tổ chức, cán bộ”(4) và “tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp”(5). Các giải pháp cần ưu tiên thực hiện là:
Thứ nhất, phát triển đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ đủ về số lượng, tốt về chất lượng, cơ cấu hợp lý và có tính chuyên nghiệp cao. Công tác tổ chức, cán bộ là khoa học và nghệ thuật với con người, đòi hỏi CBCC phải được đào tạo vừa cơ bản, vừa chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ công tác tổ chức, những kiến thức về tâm lý học, kỹ năng quản lý, sử dụng nhân lực. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, cần có chính sách phù hợp đối với đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ để CBCC yên tâm thực hiện nhiệm vụ, công vụ; không thể, không bị, không muốn và không dám sa vào vi phạm, tiêu cực trong công tác tổ chức, cán bộ.
Thứ hai, kiện toàn tổ chức và nhân sự làm công tác tổ chức, cán bộ theo quan điểm chỉ đạo của Đảng “nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ” và “thực hiện thí điểm một số mô hình mới về tổ chức bộ máy và kiêm nhiệm chức danh để tinh gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, góp phần làm rõ về lý luận và thực tiễn”(6). Có thể thực hiện thí điểm, tiến tới thực hiện thống nhất người đứng đầu cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ đồng thời là người đứng đầu cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ của đảng ủy các bộ, ngành; Chánh Thanh tra đồng thời là người đứng đầu ủy ban kiểm tra đảng các bộ, ngành. Đối với địa phương, cần tổng kết, đánh giá việc hợp nhất một số cơ quan và lãnh đạo các cơ quan đảng, chính quyền của một số địa phương để đưa ra mô hình chung cho các địa phương trong cả nước.
Thứ ba, lựa chọn những CBCC có năng lực lãnh đạo, tính chuyên nghiệp, tâm huyết, trách nhiệm cao và có năng lực dự báo, hoạch định chính sách ở tầm chiến lược để bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ. Cần quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ CBCC có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp với vị trí công việc, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.
Thứ tư, xây dựng và ban hành chế độ, chính sách hợp lý đối với đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ. Đặc biệt, coi trọng việc bố trí CBCC có đủ đức, đủ tài; có tâm, có tầm, tinh thần trách nhiệm cao; gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và rèn luyện đạo đức, lối sống, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, nói đi đôi với làm... vào giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ. Ưu tiên kiện toàn đội ngũ lãnh đạo, quản lý công tác tổ chức, cán bộ và bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, tính chuyên nghiệp, tâm huyết, trách nhiệm cho CBCC làm công tác tổ chức, cán bộ.
4. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức
Về chính sách tiền lương, cần xác định chính xác, khách quan những đóng góp, cống hiến của CBCC để phát huy năng lực, đồng thời đề cao được trách nhiệm của CBCC đối với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Theo đó, để thể chế hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa XII) về cải cách chính sách tiền lương, cần phải khẩn trương xây dựng, ban hành hệ thống chính sách, pháp luật quy định về mức lương cụ thể đối với CBCC ở từng vị trí việc làm trong toàn hệ thống chính trị để tiến tới thực hiện việc xếp lương, trả lương căn cứ vào kết quả đánh giá chất lượng, khối lượng, tiến độ và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ của CBCC; kết quả xếp loại CBCC.
Để xếp lương và trả lương theo vị trí việc làm, cần phải tiếp tục hoàn thiện danh mục vị trí việc làm và cơ cấu công chức, viên chức theo ngạch, hạng chức danh nghề nghiệp. CBCC có tài năng ngoài việc được nâng lương thường xuyên theo quy định, còn được thực hiện một số chế độ như nâng lương trước thời hạn nếu có thành tích và công trạng trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Cho phép người đứng đầu được quyền quyết định mức tiền thưởng đột xuất cho CBCC dưới quyền khi được đánh giá và xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, công vụ.
Về chính sách vinh danh CBCC và sửa đổi quy định của pháp luật về khen thưởng đối với CBCC có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ: cần nghiên cứu, tổng kết, đánh giá việc thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng để ban hành quy định mới về danh hiệu vinh dự nghề nghiệp đối với CBCC có thành tích và cống hiến, có công trạng. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức khen thưởng và mức thưởng tương ứng với mỗi hình thức khen thưởng theo hướng đảm bảo tương xứng giữa khen và thưởng, với kết quả hoàn thành nhiệm vụ, công vụ, với thành tích và cống hiến của CBCC trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
5. Khen thưởng, tôn vinh các giá trị nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, tính tích cực nghề nghiệp của cán bộ, công chức
Khen thưởng, tôn vinh các giá trị nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, tính tích cực nghề nghiệp của CBCC là một trong những giải pháp hữu hiệu trong việc ngăn ngừa sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của CBCC. Do đó, chính sách này cần được xem là nội dung quan trọng trong sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý CBCC và các chính sách có liên quan trong thời gian tới.
Rà soát các chính sách khen thưởng, tôn vinh các giá trị nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, tính tích cực nghề nghiệp của CBCC cần phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hoặc ban hành mới để khai thác, phát huy, phát triển tốt năng lực nội sinh của đội ngũ CBCC vì sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt vấn đề khen thưởng, tôn vinh này đã được xác định tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ”(7), và “Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”(8). Tuy nhiên, cần có những biện pháp cụ thể để quan điểm chỉ đạo đó trở thành hiện thực không chỉ trong chính sách, pháp luật mà còn cả trong quá trình tổ chức thực hiện trên thực tế. Theo đó, cần đổi mới, hoàn thiện các quy định về nội dung, phương pháp, tiêu chí đánh giá, xếp loại CBCC để làm căn cứ cho việc sử dụng, trọng dụng, khen thưởng, tôn vinh; xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn thống nhất để khen thưởng, tôn vinh CBCC, trong đó cần có chính sách cho đội ngũ chuyên gia đầu ngành, trực tiếp làm nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, dự báo xu hướng phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng, ban hành thể chế, đường lối, chính sách phát triển đất nước.
Lê Vĩnh Tân
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chưc Trung ương, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
---------------------------------------
Ghi chú:
(1) Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 của Chính phủ.
(2) http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Can-bo/2015/8792/Mot-chang-duong-doi-moi-trong-cong-tac-to-chuc-can-bo.aspx
(3) Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
(4) Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020.
(5) Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
(6) Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
(8) Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.