Kết quả, kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ “then chốt” ở khu vực phía nam
Cụm thi đua số 5 Ngành Tổ chức xây dựng Đảng tổng kết công tác năm 2019.

Kết quả nổi bật

Các ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy tham mưu cấp ủy sơ kết, tổng kết nhiều chủ trương, nghị quyết về công tác tổ chức xây dựng Đảng; tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào các đề án do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì. Đồng thời, tổ chức triển khai, quán triệt nghiêm túc các chủ trương, nghị quyết của Đảng có liên quan, đặc biệt là các văn bản về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nêu gương, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Qua đó, nhận thức của cán bộ, đảng viên về công tác tổ chức xây dựng Đảng tiếp tục chuyển biến rõ nét, vị trí, vai trò của cơ quan làm công tác tổ chức - cán bộ được nâng lên. Dư luận xã hội, báo chí trong khu vực ngày càng quan tâm hơn đến các hoạt động của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng.

Các địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) ngày càng đi vào chiều sâu, nhất là khi Trung ương đã ban hành đồng bộ các quy định, hướng dẫn có liên quan, cùng với những quy định cụ thể hóa của địa phương. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã chỉ đạo xây dựng, ban hành và thực hiện tốt quy định về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên làm cơ sở để cán bộ đảng viên rèn luyện, phấn đấu, tự soi, tự sửa, hoàn thiện bản thân, tiêu biểu là: Bạc Liêu, Cần Thơ, Trà Vinh, Long An, An Giang, Lâm Đồng, Bình Thuận…Tự phê bình và phê bình ngày càng thực chất hơn, các tỉnh ủy, thành ủy trong khu vực chú trọng việc gợi ý kiểm điểm hằng năm đối với tập thể, cá nhân do mình quản lý, đồng thời phân công các đồng chí ủy viên ban thường vụ, ủy viên BCH dự, chỉ đạo kiểm điểm ở các địa phương, đơn vị trực thuộc và theo dõi việc khắc phục những hạn chế sau kiểm điểm.

Các ban tổ chức tỉnh ủy, thành ủy chủ động, tích cực tham mưu với cấp ủy sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, xây dựng vị trí việc làm, tinh giản biên chế. Các tỉnh ủy, thành ủy trong khu vực đã thực hiện thí điểm các mô hình về tổ chức bộ máy theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của BCH Trung ương: hợp nhất ban tổ chức cấp ủy với cơ quan nội vụ cấp huyện (Bình Thuận, Trà Vinh), cơ quan ủy ban kiểm tra cấp ủy với thanh tra cấp huyện (Bình Thuận, Trà Vinh). Hợp nhất đảng bộ khối doanh nghiệp với đảng bộ khối cơ quan cấp tỉnh (Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sóc Trăng…). Hợp nhất ban tuyên giáo với ban dân vận và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện (Bình Dương). Hợp nhất văn phòng cấp ủy với văn phòng HĐND và UBND cấp huyện (Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang). Thực hiện mô hình trưởng ban dân vận tỉnh ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban MTTQ tỉnh: Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau (đối với cấp huyện, hầu hết tỉnh, thành phố đều có mô hình thực hiện thí điểm), trưởng ban tổ chức tỉnh ủy đồng thời là giám đốc sở nội vụ (An Giang). Hầu hết các tỉnh thực hiện mô hình bí thư chi bộ kiêm trưởng ấp. Một số tỉnh đi đầu trong thực hiện bí thư cấp ủy đồng thời chủ tịch UBND cùng cấp (An Giang, Đồng Tháp); sáp nhập sở, ngành (tỉnh Bạc Liêu hợp nhất Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Sở Thông tin - Truyền thông để thành lập mới Sở Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch; hợp nhất Sở Giáo dục - Đào tạo với Sở Khoa học - Công nghệ để thành lập mới Sở Giáo dục, Khoa học và Công nghệ).

Các tỉnh, thành phố thực hiện tốt công tác cán bộ, đẩy mạnh tinh giản biên chế, từng bước cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp vị trí việc làm. Nhiều địa phương bước đầu đổi mới công tác tuyển chọn cán bộ, mở rộng việc thu hút người có tài tham gia vào hệ thống chính trị, mở rộng thí điểm thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý (Bến Tre, Cần Thơ…). Các địa phương thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ, kịp thời bổ sung BCH, ban thường vụ bảo đảm số lượng, cơ cấu (Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ định, phân công, đồng ý giới thiệu ứng cử đối với 16 đồng chí tại 12 địa phương, các tỉnh, thành ủy đã bổ sung 74 ủy viên BCH đảng bộ, 32 ủy viên ban thường vụ). Đồng thời với việc thực hiện nghiêm các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, trong đó việc thực hiện quy trình “5 bước” trong bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử đã đi vào nền nếp, góp phần lựa chọn những cán bộ tiêu biểu, uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, không xảy ra sai sót, khiếu kiện. Việc thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đạt kết quả rõ nét, các địa phương trong khu vực đều cơ bản bảo đảm lộ trình tinh giản biên chế theo quy định. Đến nay, nhiều nơi đã đạt mục tiêu tinh giản biên chế đến năm 2021. Từng bước triển khai áp dụng vị trí việc làm (cụ thể hóa danh mục, bản mô tả vị trí, việc làm; phân công công chức đảm nhiệm công việc theo vị trí việc làm; tuyển dụng, đánh giá công chức theo vị trí việc làm...) đã góp phần đổi mới phương thức quản lý, cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Tổ chức đảng, đảng viên ở cơ sở tiếp tục được kiện toàn phù hợp với việc sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở. Nhiều tỉnh, thành ủy thực hiện giải thể các chi bộ cơ quan ở xã, phường, thị trấn và phân công đảng viên về sinh hoạt chi bộ ở khu dân cư. Chất lượng sinh hoạt chi bộ được nâng lên, sinh hoạt chuyên đề ngày càng đi vào nền nếp. Nhiều địa phương đã hướng dẫn nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ với từng loại hình cụ thể, ban hành tiêu chí đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ, duy trì tốt việc phân công cấp ủy viên cấp trên dự sinh hoạt chi bộ cấp dưới. Công tác kết nạp đảng viên được quan tâm hơn, nhất là về cơ cấu, chất lượng, việc kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân đủ điều kiện vào Đảng đạt kết quả tốt. Hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên trong các doanh nghiệp tư nhân có chuyển biến tích cực, nhiều tổ chức đảng hoạt động hiệu quả, được chủ doanh nghiệp đồng tình, ủng hộ.

Hạn chế, khó khăn

Bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm còn những hạn chế. Việc triển khai thực hiện Đề án vị trí việc làm Ngành Tổ chức xây dựng Đảng và thí điểm bố trí, sử dụng, tuyển dụng và quản lý công chức của Ngành gắn với vị trí việc làm một số nơi còn chậm. Thực hiện tinh giản biên chế có nơi chưa đạt kế hoạch đề ra. Sự phối hợp giữa các đơn vị trong công tác cán bộ chưa thật nhịp nhàng, đồng bộ, có lúc, có việc chưa kịp thời. Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Trung ương còn chậm. Đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi thực hiện chưa nghiêm về tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Kiểm điểm tập thể, cá nhân vẫn còn hạn chế, một số hạn chế đã được chỉ ra từ các năm trước nhưng chậm được khắc phục. Đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên, tập thể và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý ở một số nơi còn biểu hiện “bệnh thành tích”. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số TCCSĐ còn thấp; tính tiền phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên có mặt giảm sút. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách hành chính trong tổ chức đảng chậm chuyển biến. Một số cơ quan bước đầu ứng dụng hệ thống điều hành xử lý công việc gặp nhiều khó khăn, bất cập trong việc sử dụng mạng nội bộ của Đảng và xử lý công việc trên hệ thống mạng in-tơ-nét của các cơ quan nhà nước.

Nguyên nhân hạn chế là do: một số cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc các tỉnh, thành ủy chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc, toàn diện về tầm quan trọng của công tác tổ chức xây dựng Đảng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Một số quy định, quy chế của khối đảng và khối nhà nước chưa đồng bộ, nhiều quy định chậm được bổ sung, sửa đổi. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa toàn diện, sâu sát, quyết liệt, có biểu hiện trông chờ, ỷ lại. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu thiếu gương mẫu, chưa chủ động, sáng tạo, chưa coi trọng hoặc buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát. Sự phối hợp giữa các cấp ủy, tổ chức đảng có lúc, có việc chưa chặt chẽ; chưa phân định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Một bộ phận cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng còn nhiều mặt hạn chế.

Kinh nghiệm

Từ thực tiễn triển khai công tác tổ chức xây dựng Đảng ở các địa phương, rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, phải nắm vững chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng và tình hình thực tế của địa phương để đề ra nhiệm vụ về công tác tổ chức xây dựng Đảng.

Hai là, quá trình thực hiện nhiệm vụ cần tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ban tổ chức cấp ủy phải tranh thủ ý kiến của thường trực cấp ủy, nhất là đồng chí bí thư. Tùy theo nguồn lực của địa phương xác định các nhiệm vụ trọng tâm trong từng thời điểm, nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau, làm dứt điểm từng việc.

Ba là, công tác sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhạy cảm. Vì vậy, quá trình thực hiện cần có biện pháp thật sự khoa học, vừa quyết liệt, vừa thận trọng, không cầu toàn nhưng không nóng vội, nhất là đối với những lĩnh vực tác động đến nhiều đối tượng như y tế, giáo dục.

Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trong mọi nhiệm vụ đề ra, cơ quan và cán bộ làm công tác tổ chức phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện. Tăng cường phối hợp trong toàn ngành, trên, dưới, dọc, ngang. Quan tâm động viên, chia sẻ, tạo môi trường làm việc thân thiện, tích cực


Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất