Một số bài học kinh nghiệm qua kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với một số ban cán sự đảng và đảng viên

Các tổ chức đảng và đảng viên nêu trên đã mắc nhiều khuyết điểm, vi phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; quản lý tài chính, đầu tư công để thất thoát, thua lỗ lớn kéo dài; sai phạm trong công tác cán bộ, công tác thi đua khen thưởng và vi phạm quy chế làm việc của Ban cán sự Đảng, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ... Những khuyết điểm vi phạm đã xảy ra trong thời gian dài, nhiều nhiệm kỳ, có những vi phạm xảy ra rất nghiêm trọng gây hậu quả lớn về kinh tế - xã hội và môi trường.

UBKT Trung ương đã kỷ luật theo thẩm quyền và đề nghị Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương kỷ luật nhiều tổ chức đảng, đảng viên vi phạm như: Kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với Trịnh Xuân Thanh; cảnh cáo Ban Cán sự đảng Bộ Công thương và cách chức Bí thư Ban Cán sự đảng đối với đồng chí Vũ Huy Hoàng. Kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với các đồng chí Hồ Thị Kim Thoa, Ủy viên Ban cán sự đảng, Thứ trưởng Bộ Công thương; Trần Thị Hà, Ủy viên Ban cán sự đảng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ và Nguyễn Duy Thăng, Uỷ viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ . Kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với các đồng chí Trần Lưu Hải, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương và Bùi Cao Tỉnh, Trợ lý đồng chí Trưởng Ban; Huỳnh Minh Chắc, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hậu Giang. Kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với đồng chí Trần Công Chánh, Bí thư Tỉnh uỷ Hậu Giang.

Đối với các vi phạm liên quan đến Dự án Formusa Hà Tĩnh, Ban Bí thư đã quyết định: Kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm kỳ 2011-2016; cảnh cáo đồng chí Nguyễn Minh Quang; cách chức Ủy viên Ban cán sự đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhiệm kỳ 2011-2016 đối với đồng chí Bùi Cách Tuyến và Nguyễn Thái Lai, nguyên thứ trưởng; cách chức Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2005-2010 và nhiệm kỳ 2010-2015 đối với đồng chí Võ Kim Cự (gồm cả các chức vụ: Bí thư Ban cán sự đảng UBND tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh theo quy định).

Liên quan đến các vi phạm tại Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN), UBKT Trung ương đã quyết định kỷ luật bằng các hình thức: Cách chức Bí thư Đảng ủy PVN nhiệm kỳ 2010-2015 đối với đồng chí Phùng Đình Thực; cách chức Phó Bí thư Đảng ủy Tập đoàn đối với đồng chí Đỗ Văn Hậu; khai trừ ra khỏi Đảng Nguyễn Xuân Sơn, nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn PVN; cảnh cáo đồng chí Nguyễn Quốc Khánh nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐTV, nguyên Phó Tổng Giám đốc; đã đề nghị Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo và cho thôi chức Ủy viên Bộ Chính trị đối với đồng chí Đinh La Thăng. Chỉ đạo Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp Trung ương ra quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với tập thể Ban Thường vụ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.

Các nội dung vi phạm và hình thức kỷ luật cụ thể đối với tổ chức đảng và đảng viên đã được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và UBKT Trung ương công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, đã từng bước tạo niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, chứng minh sự quyết tâm của Đảng ta trong đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng.

Kết quả xử lý các vụ việc vi phạm nêu trên đã để lại cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc trong thực hiện các nguyên tắc của Đảng; công tác quản lý cán bộ, giáo dục và rèn luyện đảng viên; trong quản lý tài chính, ngân sách nhà nước… và đặc biệt là để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, cần phải tổng kết, rút kinh nghiệm phổ biến trong Ngành Kiểm tra Đảng.

Bài học thứ nhất: Về phát hiện dấu hiệu vi phạm, xác định đối tượng, nội dung, thời điểm kiểm tra

Các cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm nêu trên cho thấy UBKT Trung ương đã vào cuộc, chủ động, kịp thời, lựa chọn vấn đề, phát hiện dấu hiệu vi phạm và xác định đối tượng, nội dung, thời điểm kiểm tra.

Trong bối cảnh hiện nay, vi phạm của các tổ chức đảng và đảng viên diễn ra trên nhiều địa bàn, lĩnh vực nhưng UBKT Trung ương lựa chọn vấn đề có tính trọng tâm, trọng điểm để tiến hành kiểm tra trên các lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước và những vấn đề nhân dân đòi hỏi, trước hết là về cán bộ và công tác cán bộ, vấn đề bảo vệ môi trường và về quản lý tài chính của các tập đoàn kinh tế, nhanh chóng kiểm tra, kết luận và xử lý, tạo niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Vụ việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Trịnh Xuân Thanh cho thấy vấn đề ban đầu là cán bộ không gương mẫu, sử dụng xe công vượt quá tiêu chuẩn quy định đối với chức danh Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Trịnh Xuân Thanh sử dụng chiếc xe ô tô Lexus trị giá hơn 5 tỷ đồng gắn biển xanh trái quy định qua sự phản ánh của báo Thanh Niên với bài: "Xe tư nhân gắn biển số xanh và di sản của Phó Chủ tịch Hậu Giang" và các bài tiếp theo. Từ việc Trịnh Xuân Thanh được tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, khen thưởng có nhiều yếu tố bất thường, chúng ta nhìn ra những khuất tất trong công tác cán bộ và công tác thi đua khen thưởng. Vấn đề là những vi phạm này liên quan đến tổ chức, cá nhân nào và giải quyết như thế nào? Vì thế, UBKT Trung ương đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự đảng Bộ Công Thương và Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ, kiểm tra và tiến hành kiểm điểm tại Ban Tổ chức Trung ương.

Tiếp đó, cũng từ việc Trịnh Xuân Thanh mắc nhiều sai phạm trong quản lý tài chính khi làm Tổng Giám đốc, Chủ tịch HĐQT tại một Tổng công ty thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, đặt ra vấn đề phải gấp rút kiểm tra các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước và một số bộ quản lý ngành có liên quan. Thực tế qua kiểm tra đã phát hiện một loạt những sai phạm của các đơn vị này.

Việc phát hiện dấu hiệu vi phạm

Dấu hiệu vi phạm được thực hiện qua công tác giám sát thường xuyên của cán bộ địa bàn và thông qua báo chí, dư luận xã hội; sự phản ánh, kiến nghị, tố cáo của đảng viên và nhân dân; có những vụ việc cán bộ theo dõi địa bàn chưa phát hiện được vi phạm nhưng Thường trực UBKT Trung ương đã có sự chỉ đạo nắm tình hình bằng nhiều nguồn thông tin khác nhau và bằng kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo đã quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đúng và trúng; giải quyết được cơ bản tình hình và những bức xúc trong xã hội.

Từ đó cho thấy: Ngành Kiểm tra phải chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Muốn vậy, phải tăng cường công tác giám sát thường xuyên, tích cực theo dõi địa bàn, khai thác từ tài liệu của các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, tòa án. Đồng thời, coi trọng xử lý thông tin qua đơn thư của cán bộ, đảng viên, công dân, qua báo chí, kịp thời báo cáo đề xuất lãnh đạo UBKT xem xét, quyết định kiểm tra để ngăn chặn những hành vi sai phạm từ khi còn manh nha. Cán bộ theo dõi, giám sát địa bàn phải tham dự đầy đủ các cuộc họp của địa bàn, chủ động thường xuyên thu thập, lựa chọn, xử lý các nguồn thông tin, nắm được hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên thuộc đối tượng giám sát để sớm phát hiện dấu hiệu vi phạm.  

Sự vào cuộc kịp thời, chủ động, quyết liệt, toàn diện, nhưng thận trọng, công tâm, khách quan của UBKT Trung ương đã phát hiện hàng loạt sai phạm, xử lý và tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm, được đồng chí Tổng Bí thư đánh giá là "một điểm sáng nổi bật của năm 2016" và sáu tháng đầu năm 2017.

Về xác định đối tượng kiểm tra

Đối tượng kiểm tra của UBKT trước hết là tổ chức đảng cấp dưới, cấp uỷ viên cùng cấp và cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý nhưng kinh nghiệm cho thấy đối tượng kiểm tra phải xác định trước hết phải là cán bộ chủ chốt, mắt xích có liên quan trực tiếp đến những sai phạm.

Trịnh Xuân Thanh là cán bộ thuộc diện ban thường vụ tỉnh ủy quản lý nhưng qua kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với đối tượng này đã xác định được vi phạm của nhiều cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý như các đồng chí nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Công thương; đồng chí Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương; đồng chí nguyên Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hậu Giang và một số đồng chí thứ trưởng Bộ Công thương, Bộ Nội vụ… đều có vi phạm đến mức phải kỷ luật. Kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm Ban Thường vụ Đảng uỷ Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và một số thành viên đã phát hiện ra vi phạm của đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Tập đoàn.

Về xác định nội dung kiểm tra

Khi xác định nội dung kiểm tra có thể chia nhóm nội dung và xác định nội dung nào kiểm tra trước và nội dung nào kiểm tra sau sao cho thật sự hiệu quả. Việc xác định nội dung kiểm tra, gợi ý kiểm điểm phải đúng và trúng trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ công tác kiểm tra, đó là việc chấp hành quy chế làm việc, thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, không quá đi sâu vào kiểm tra các vấn đề cụ thể.

Để đề xuất đúng nội dung kiểm tra và gợi ý kiểm điểm, cần yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin, tài liệu cho việc xây dựng nội dung gợi ý kiểm điểm được sát đúng để khi đối tượng kiểm tra báo cáo giải trình không thể che giấu được các vi phạm.

Kinh nghiệm kiểm tra ở vụ Formusa cho thấy, tổ công tác của UBKT Trung ương làm việc trực tiếp với Thường trực Tỉnh uỷ để chuẩn bị cho cuộc kiểm tra, theo đó hàng ngàn trang tài liệu đã được chuyển đến trước cho UBKT Trung ương phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây dựng nội dung và đề cương gợi ý của đoàn kiểm tra.

Việc chuẩn bị nội dung gợi ý kiểm điểm được thực hiện theo phương pháp "song song"; tức là từng thành viên đoàn kiểm tra chuẩn bị nội dung gợi ý theo đầu mối tổ chức hoặc cá nhân và đồng chí trưởng đoàn xét duyệt quyết định. Phương pháp này đã rút ngắn thời gian xây dựng gợi ý kiểm tra, phát huy tối đa trách nhiệm của từng thành viên. Do đó, trong thời gian ngắn nội dung gợi ý kiểm tra cho các đối tượng kiểm tra và các sở ngành của tỉnh đã được hoàn thành, nội dung gợi ý kiểm tra ngắn gọn, dễ hiểu, chính xác tạo thuận lợi cho các bước tiếp theo.

Hay đối với hoạt động của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đặt dưới sự quản lý của Chính phủ, nhiều bộ ngành ở Trung ương nên cán bộ theo dõi địa bàn phải xác định được thẩm quyền, trách nhiệm của từng đối tượng ở từng thời điểm; đối chiếu với dấu hiệu vi phạm và chứng cứ, tài liệu thu thập được để xác định nội dung kiểm tra cho phù hợp.

Việc lựa chọn thời điểm kiểm tra

Lựa chọn thời điểm kiểm tra phải hết sức kịp thời, góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình và không để đối tượng kiểm tra xoá bỏ hoặc tiêu huỷ các chứng cứ vi phạm.

Khi sự cố môi trường miền Trung xảy ra, UBKT Trung ương đã nhanh chóng xác định đối tượng, nội dung kiểm tra và thời điểm kiểm tra. Nếu quá sớm thì chưa làm tốt được việc thu thập, nghiên cứu tài liệu và phối hợp với thường trực tỉnh uỷ để làm tốt công tác chuẩn bị; nếu để quá chậm sẽ làm tình hình căng thẳng thêm và các thế lực thù địch và tôn giáo cực đoan lợi dụng chống phá Đảng. Cuối cùng, thời điểm công bố quyết định kiểm tra được ấn định ngày 19-9-2016, vừa đủ cho đoàn kiểm tra làm tốt công tác chuẩn bị vừa góp phần ổn định tình hình.

Bài học thứ hai: Về tổ chức đoàn kiểm tra và chuẩn bị kế hoạch kiểm tra

Việc phân công đồng chí Phó Chủ nhiệm UBKT Trung ương phụ trách, lựa chọn trưởng đoàn và thành viên đoàn kiểm tra

Đồng chí Phó Chủ nhiệm UBKT Trung ương phụ trách đoàn kiểm tra phải là cầu nối giữa đoàn kiểm tra với tập thể Thường trực Ủy ban, cùng với trưởng đoàn kiểm tra phải là người hiểu biết sâu và có tầm bao quát về lĩnh vực kiểm tra, có trình độ phân tích, tổng hợp và biết hướng dẫn, động viên các thành viên trong đoàn phát huy năng lực, sở trường, không bị chi phối trong bất kỳ hoàn cảnh nào; cán bộ tham gia đoàn kiểm tra có phẩm chất, năng lực, nghiệp vụ kiểm tra và kiến thức về pháp luật liên quan.

Thành viên đoàn kiểm tra thực sự là người có bản lĩnh, hiểu rõ về lĩnh vực kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; không nhất thiết phải chọn cán bộ theo dõi địa bàn, lĩnh vực tham gia đoàn kiểm tra ở địa bàn, lĩnh vực phụ trách.

Khi cần thiết có thể trưng tập cán bộ có chuyên môn sâu ở các ngành, lĩnh vực có liên quan tham gia đoàn kiểm tra. Vụ việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban thường vụ Đảng uỷ Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, UBKT Trung ương đã trưng tập cán bộ có kinh nghiệm, có chuyên môn sâu ở Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy trong quá trình kiểm điểm, xem xét về trách nhiệm, nếu tổ chức đảng, đảng viên đã nhận thức rõ được vi phạm và nhận hình thức kỷ luật đúng với tính chất, mức độ vi phạm thì UBKT Trung ương chỉ cần thành lập tổ công tác để rà soát kiểm tra về quy trình, thủ tục thẩm quyền và đề nghị thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới, báo cáo UBKT quyết định kỷ luật theo thẩm quyền, không nhất thiết phải thành lập đoàn kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; như việc xem xét, xử lý kỷ luật đối với các đồng chí: Nguyên Phó Trưởng Ban thường trực Ban Tổ chức Trung ương và đồng chí Trợ lý Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đồng chí nguyên Bí thư Tỉnh uỷ và đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Hậu Giang, đồng chí nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Việc xây dựng và ban hành kế hoạch kiểm tra

Việc xây dựng và ban hành kế hoạch kiểm tra phải được bảo đảm về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, thời gian tiến hành, yêu cầu chứng cứ, tài liệu thu thập được; phải dựa trên các căn cứ chủ yếu sau:

Dự kiến thời gian, lực lượng, phân công, nhiệm vụ cho thành viên.

Xác định những đối tượng là tổ chức, cá nhân cần tiếp xúc, trao đổi những thông tin, văn bản, tài liệu, chứng cứ cần thu thập.

Dự kiến những tình huống có thể phát sinh trong quá trình kiểm tra và cách giải quyết.

Bên cạnh đó, để xây dựng kế hoạch sát với thực tiễn, đạt yêu cầu, cán bộ xây dựng kế hoạch phải nắm vững nội dung kiểm tra; hiểu được cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của đối tượng kiểm tra để dự liệu được nội dung làm việc; dự báo chính xác khả năng vi phạm có thể xảy ra ở khâu, ở bộ phận, ở tổ chức, cá nhân nào, từ đó có cách tiếp cận, phương pháp kiểm tra thu thập thông tin, tài liệu và cho phù hợp.

Bài học thứ ba: Về phương pháp kiểm tra

Các đoàn kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm kể trên đã bám sát năm phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra, đặc biệt đi sâu vào báo cáo tự kiểm tra của đối tượng kiểm tra và kết hợp chặt chẽ với thẩm tra, xác minh.

Trong quá trình kiểm tra dấu hiệu vi phạm của tổ chức, cá nhân như Ban Thường vụ Đảng uỷ Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm vụ Trịnh Xuân Thanh, Vụ Formusa Hà Tĩnh, đoàn kiểm tra đã sử dụng linh hoạt các phương pháp trong công tác kiểm tra. Đã dựa vào tổ chức đảng và tiến hành kiểm tra đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng, đúng quy trình, có chất lượng và hiệu quả, đoàn kiểm tra nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các cơ quan được kiểm tra để tiến hành kiểm tra và có chương trình, kế hoạch, nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện linh hoạt, cụ thể, sát hợp.

Việc phát huy tính tự giác của tổ chức đảng, đảng viên cũng được đoàn kiểm tra chú trọng thực hiện như có hình thức, biện pháp tác động thích hợp nhằm động viên, thuyết phục đối tượng được kiểm tra nêu cao tính tự giác, tự ý thức về vai trò, trách nhiệm của mình, chủ động thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn, giúp cho công tác kiểm tra có chất lượng, hiệu quả.

Trên cơ sở báo cáo tự kiểm tra, đoàn kiểm tra đã tiến hành thẩm tra, xác minh tỉ mỉ, khách quan, toàn diện, giữ đúng nguyên tắc đảng và kỷ luật phát ngôn.

Sau khi hướng dẫn động viên các tập thể, cá nhân có liên quan trung thực báo cáo tự kiểm tra, kiểm điểm, Đoàn kiểm tra đã hình dung được bức tranh tổng thể về hoạt động của đối tượng kiểm tra để tập trung vào những khâu, mắt xích quan trọng nhất; phát hiện, tìm kiếm, thu thập, xem xét, tra cứu, thẩm định, đánh giá và sử dụng những chứng cứ, phân tích thông tin, tài liệu đã thu thập được liên quan đến vụ việc kiểm tra; phân tích, xâu chuỗi các mối liên hệ và sự phù hợp giữa các chứng cứ với nhau và với vụ việc theo các nguyên tắc, phương pháp công tác đảng để tìm ra sự thật, chỉ đúng bản chất các thông tin, chứng cứ đó.

Thái độ trong công tác kiểm tra là chủ động, kiên quyết, khách quan, chính xác, không suy diễn; coi trọng chứng cứ, đề cao việc đối thoại với đối tượng bị kiểm tra để họ nhận ra khuyết điểm, vi phạm, "tâm phục, khẩu phục" với kết luận kiểm tra.  Đoàn kiểm tra đã trao đổi, thảo luận với đối tượng kiểm tra hết sức công tâm, dân chủ, thẳng thắn; vì vậy đã xoá bỏ được sự mặc cảm, định kiến về cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, tác động mạnh đến tâm lý, ý thức tự giác của đối tượng kiểm tra góp phần không nhỏ vào kết quả thẩm tra, xác minh.

Điển hình như việc thẩm tra, xác minh ở dự án Formsa đối với đồng chí nguyên nguyên Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch UBND tỉnh được đoàn kiểm tra lựa chọn, quyết định tại thời điểm khi đã cơ bản làm rõ được diễn biến sự việc; cơ bản xác định được trách nhiệm một số sở, ngành địa phương và bộ, ngành ở Trung ương. Phương pháp kết hợp giữa phân tích, chứng minh với giải thích, thuyết phục, vận động, đồng chí đã nhận thấy và dũng cảm nhận các khuyết điểm, vi phạm.

Kết luận về sai phạm đối với các tổ chức đảng và cá nhân trong cuộc kiểm tra tại Bộ Công thương và Bộ Nội vụ; Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ban cán sự đảng UBND tỉnh Hà Tĩnh rất nhạy cảm về chính trị, được báo chí và dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Do đó, các đoàn kiểm tra phải tiến hành thẩm tra, xác minh rất thận trọng, tỷ mỉ, khách quan và toàn diện, tập trung xem xét phát hiện mâu thuẫn trong khi trao đổi, trong báo cáo với đoàn kiểm tra, đồng thời thu thập thêm thông tin, tài liệu liên quan mới để đối chiếu, so sánh, tìm ra bằng chứng xác thực để chứng minh, không lựa chiều, suy diễn.

Khi cần thiết đoàn kiểm tra báo cáo Thường trực Uỷ ban cho mở rộng nội dung, đối tượng kiểm tra có liên quan và thực hiện trưng cầu giám định kỹ thuật chuyên môn. Đoàn kiểm tra ở Bộ Công thương và Bộ Nội vụ đã mở rộng thẩm tra, xác minh ở nhiều đơn vị trực thuộc và có liên quan như Vụ Tổ chức - Cán bộ, Văn thư, bộ phận thư ký lãnh đạo, Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương và các vụ chuyên môn, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia, Tổng công ty Xây lắp dầu khí, Tổng công ty Rượu Bia nước giải khát Sài Gòn và các cơ quan khác như Ban Tổ chức Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Hội đồng Thi đua Khen thưởng Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước…

Với phương pháp: Nghiên cứu báo cáo giải trình của các đơn vị, làm việc trực tiếp nghe giải đáp thắc mắc của đoàn kiểm tra, xem xét tài liệu liên quan; thậm chí, có những nội dung đoàn kiểm tra chưa đủ thông tin, căn cứ để kết luận mà phải trưng cầu ý kiến của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan giám định chuyên môn. Vì vậy, việc thu thập thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra được chính xác, khách quan. Chính vì thẩm tra, xác minh kỹ lưỡng, toàn diện, căn cứ vào các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước nên hầu hết những nhận định của các đoàn kiểm tra đều được UBKT Trung ương chấp nhận kết luận với đối tượng kiểm tra.

Trong quá trình kiểm tra, đoàn kiểm tra phải chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các tổ chức đảng, các cơ quan tư pháp, thanh tra, kiểm toán thực hiện nhiệm vụ để đẩy nhanh tiến độ xem xét, kiểm tra các vụ việc với quyết tâm cao, tôn trọng lẽ phải, kiên quyết bảo vệ cái đúng, không khoan nhượng với những hành vi sai trái.

Đoàn kiểm tra dự án Formusa Hà Tĩnh xác định sự phối kết hợp với Thường trực Tỉnh uỷ là một trong những công việc đoàn kiểm tra phải làm tốt để bảo đảm cho cuộc kiểm tra đạt chất lượng. Đặc biệt trong giai đoạn thẩm tra, xác minh, đoàn kiểm tra đã chủ động trao đổi thông tin, thống nhất nội dung phối hợp với Thường trực Tỉnh uỷ, nhất là đồng chí Bí thư, do đó kết quả thẩm tra, xác minh đã tạo được sự đồng thuận cao của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Uỷ ban Nhân dân tỉnh là tiền đề quan trọng để đoàn kiểm tra báo cáo UBKT Trung ương.

Kết thúc thẩm tra, xác minh, đoàn kiểm tra xây dựng báo cáo trình UBKT Trung ương. Báo cáo phải ngắn gọn, phân tích rõ ràng từng nội dung và đi vào mấu chốt của vấn đề, tránh dàn trải, các vấn đề đưa ra phải có chứng cứ, lý lẽ rõ ràng, thuyết phục trước mỗi nhận định.

Việc xem xét, thi hành kỷ luật đối với Ban Thường vụ Đảng uỷ Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và các cá nhân có liên quan, đoàn kiểm tra đã tập trung cao độ, thận trọng từng việc trong hơn bảy tháng liền để kiểm tra theo đúng nguyên tắc, quy trình, quy định; xác minh, kết luận công tâm, khách quan, có lý, có tình nên kết quả thống nhất rất cao khi bỏ phiếu kỷ luật.

Với các vụ việc đã rõ và đối tượng kiểm tra đã thừa nhận có khuyết điểm, vi phạm thì kinh nghiệm cho thấy, cần báo cáo Thường trực Ủy ban cho thực hiện quy trình "kép" để rút ngắn thời gian và công đoạn xử lý, như xử lý kỷ luật ở Bộ Công thương và Bộ Nội vụ.

Bài học thứ tư: Về xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên

Việc xử lý kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên qua các cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm nêu trên đều bám sát tinh thần "công minh, chính xác, kịp thời" để tổ chức đảng, đảng viên bị kỷ luật phải "tâm phục, khẩu phục", đồng thời tạo niềm tin đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Khi xem xét kỷ luật bất kỳ tổ chức đảng, đảng viên nào, UBKT Trung ương đều nhìn nhận sự việc và từng đảng viên cụ thể một cách công tâm, khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể, chính xác, thấu tình, đạt lý. UBKT Trung ương đã lượng hoá các khuyết điểm, vi phạm của đối tượng kiểm tra, xác định tính chất, mức độ, hậu quả của vi phạm và căn cứ cụ thể vào Quy định của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm để xem xét, quyết định. Các đảng viên, tổ chức đảng vi phạm được UBKT Trung ương quyết định hoặc đề nghị kỷ luật được đảng viên và nhân dân đồng tình, không có khiếu nại kỷ luật đảng.

Việc xử lý kỷ luật phải theo quy trình chặt chẽ, trình tự thống nhất. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đều được kiểm điểm theo quy trình từ dưới lên. Tuy nhiên cần phải thực hiện hết sức chặt chẽ, tránh xuôi chiều, phải quán triệt sâu sắc trong từng tổ chức đảng về tính chất mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm, xác định rõ hình thức kỷ luật trước khi bỏ phiếu.

Thực tế các cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm vừa qua cho thấy, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng tham gia các công việc liên quan đến Trịnh Xuân Thanh thiếu tinh thần đấu tranh, dân chủ xuôi chiều, không làm hết trách nhiệm, thiếu dũng khí trong đấu tranh với những việc làm chưa đúng; có đồng chí cấp ủy viên còn nể nang, nhận thức chưa hết trách nhiệm của mình, thậm chí còn cho rằng Trịnh Xuân Thanh có thành tích, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, không có khuyết điểm vi phạm nên đã đề nghị không kỷ luật, có trường hợp còn ủng hộ, bao che cho cán bộ vi phạm.

Kinh nghiệm cho thấy để kỷ luật đúng người, đúng vi phạm, tập thể Uỷ ban phải thảo luận kỹ, xem xét, kết luận chính xác, rõ từng vấn đề để thống nhất nhận thức trước khi biểu quyết kỷ luật; phải xác định rõ nội dung, tính chất, mức độ vi phạm và hình thức kỷ luật để quyết định hoặc đề nghị hình thức kỷ luật chính xác, có sức thuyết phục cao trên cơ sở quy định của Đảng và tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4, khoá XII. Đối với trường hợp cán bộ thuộc thẩm quyền Bộ Chính trị, Ban Bí thư kỷ luật, UBKT Trung ương có báo cáo đề nghị rõ ràng, chính xác để có cơ sở giúp Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương quyết định.

Qua các vụ việc kỷ luật đảng viên vi phạm cho thấy, việc xử lý kỷ luật đảng viên là sự quyết liệt của UBKT Trung ương trong đấu tranh chống tiêu cực, không có "vùng cấm", không có ngoại lệ, dù đảng viên đó đã nghỉ hưu như các đồng chí nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng đã giữ những cương vị cao ở Bộ Công thương, Ban Tổ chức Trung ương, Tỉnh uỷ Hậu Giang… hay đang giữ chức vụ cao cấp trong Đảng như một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị cũng được xử lý một cách nghiêm túc, công minh, chính xác, kịp thời.

Đây là bước tiến mới của Đảng về công khai, minh bạch, khách quan trong xử lý vấn đề nhạy cảm, sai phạm của cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII và cũng là biện pháp hữu hiệu để chống lại các luận điệu xuyên tạc cái gọi là "vùng cấm" của các thế lực thù địch, lợi dụng để chống phá Đảng.

Bài học thứ năm: Giám sát việc thực hiện quyết định, kết luận của UBKT Trung ương và của Ban Bí thư, Bộ Chính trị

UBKT Trung ương luôn chú trọng các công việc sau kiểm tra, đó là giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyết định, kết luận của UBKT Trung ương và của Ban Bí thư, Bộ Chính trị. Cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm không kết thúc ở việc xem xét kỷ luật các tổ chức đảng và đảng viên mà UBKT Trung ương tiếp tục đề nghị cấp có thẩm quyền chỉ đạo làm rõ, xử lý nghiêm những sai phạm của các cơ quan, cá nhân liên quan cũng như thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện các quyết định, kết luận của UBKT.

Mỗi thông báo kết luận về một cuộc kiểm tra dấu hiệu vi phạm của UBKT Trung ương đều chỉ ra những sai phạm của đối tượng được kiểm tra, hình thức kỷ luật (nếu có), yêu cầu kiểm điểm, chấn chỉnh hoạt động và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền rà soát, chỉ đạo hoàn thiện pháp luật.

Thông qua các cuộc kiểm tra ở Bộ Công thương, Bộ Nội vụ, Formusa Hà Tĩnh và Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã quyết định xử lý kỷ luật đảng viên và đề nghị cấp trên kỷ luật một tổ chức đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền; đồng thời yêu cầu các tổ chức đảng có thẩm quyền xử lý kỷ luật các cá nhân có liên quan và rà soát, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh các văn bản và hoạt động về công tác tổ chức cán bộ, công tác thi đua khen thưởng.

Các thông báo kết luận về kiểm tra tại Bộ Công Thương và Bộ Nội vụ cũng chỉ rõ thời điểm phải báo cáo UBKT Trung ương kết quả thực hiện kết luận. Đồng thời, UBKT Trung ương đã cử thành viên Uỷ ban và cán bộ địa bàn theo dõi, giám sát quá trình xử lý kỷ luật các cá nhân có liên quan thuộc thẩm quyền của Ban cán sự đảng Bộ Công thương và Bộ Nội vụ.

Đối với các vụ việc phức tạp xảy ra, UBKT Trung ương đã thành lập hai tổ công tác để theo dõi, giám sát các ban cán sự Đảng xử lý về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan ở các bộ, ngành ở Trung ương và trong việc khắc phục hậu quả sau kiểm tra.

Thực tế việc kiểm tra tại Bộ Công thương và Bộ Nội vụ có liên quan đến Trịnh Xuân Thanh đã được dư luận xã hội quan tâm từ trước. Do đó, việc công khai một phần kết luận kiểm tra đối với vụ việc Trịnh Xuân Thanh và nội dung chỉ đạo của Ban Bí thư, của đồng chí Tổng Bí thư đã tạo thuận lợi rất quan trọng cho đoàn kiểm tra trong việc phát huy tính tự giác của tổ chức đảng và đảng viên; việc cung cấp thông tin của các tổ chức và cá nhân có liên quan.

Kinh nghiệm cho thấy, ở một mức độ nào đó, với từng vụ việc cụ thể việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm nên có sự công khai kết luận ở mức độ phù hợp đối với các vụ việc  để nhận được sự đồng tình, ủng hộ từ báo chí và dư luận. Phải phối hợp tốt với cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền về kết quả kiểm tra, hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, tạo hiệu ứng tốt trong xã hội.

Bài học thứ sáu: Thường trực UBKT Trung ương thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo đoàn kiểm tra

Trong quá trình tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, Thường trực UBKT Trung ương thường xuyên nghe các đoàn kiểm tra báo cáo và kịp thời định hướng, chỉ đạo, tạo sự thống nhất trong quá trình kiểm tra, động viên nhắc nhở các đoàn phải chủ động, quyết tâm chính trị cao trong kiểm tra, phải gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ. UBKT thành lập đoàn kiểm tra nhưng không thể "giao khoán" cho đoàn kiểm tra bởi kết luận của uỷ ban là sản phẩm của uỷ ban chứ không phải của đoàn kiểm tra nên thường trực Uỷ ban phải chỉ đạo thường xuyên.

Kinh nghiệm kiểm tra các vụ việc điển hình cho thấy, Thường trực UBKT Trung ương thường xuyên nghe đoàn kiểm tra báo cáo tiến độ, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, chấn chỉnh những biểu hiện không đúng về hoạt động của đoàn kiểm tra; luôn có sự động viên, khuyến khích, là chỗ dựa tin cậy cho đoàn kiểm tra.

Các đoàn kiểm tra chấp hành nghiêm sự chỉ đạo của Thường trực Ủy ban, của đồng chí Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Thường trực và đồng chí Phó Chủ nhiệm phụ trách Đoàn; bám sát lịch trình, thường xuyên báo cáo tiến độ thực hiện với Thường trực Ủy ban để có sự chỉ đạo kịp thời và luôn nhận được sự động viên của Thường trực Ủy ban, giúp nâng cao quyết tâm thực hiện, giải tỏa bớt áp lực trong quá trình thi hành nhiệm vụ.

Cán bộ kiểm tra có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường tư tưởng kiên định, trong quá trình tác nghiệp tôn trọng sự thật, không chịu bất kỳ một sức ép hay sự tác động sai trái nào, khẩn trương thẩm tra, xác minh để làm rõ vụ việc báo cáo Ủy ban; đặc biệt không được "hứa hẹn" vô nguyên tắc hoặc vướng vào bất cứ tiêu cực nào khi phải đấu tranh với những sai phạm của đồng chí mình, đấu tranh với chính mình để không phạm phải những "cám dỗ đời thường", như đồng chí Tổng Bí thư phát biểu, cán bộ kiểm tra "phải có dũng khí đấu tranh, chính trực và hơn ai hết, phải liêm, phải sạch. Không liêm, không sạch thì không nói được ai, không kiểm tra, giám sát, không kỷ luật được người khác".

Bài học thứ bảy: Tập trung kiểm tra, giám sát các lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm và chủ động kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng đối với cấp ủy và UBKT cấp dưới

Qua kiểm tra cho thấy việc quản lý và bổ nhiệm cán bộ không đúng; việc đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính không hiệu quả gây thất thoát, lãng phí, tham nhũng. Quản lý nhà nước đối với các tập đoàn, tổng công ty bị buông lỏng và sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát của cấp có thẩm quyền không kịp thời, thường xuyên. Một số lĩnh vực đã được thanh tra, kiểm toán nhưng không hiệu quả nên việc răn đe, cảnh báo thấp, từ đó vi phạm nhỏ thành vi phạm lớn, vi phạm của một người thành của nhiều người, hình thành "nhóm lợi ích" gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Vụ việc tại Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam cho thấy các sai phạm rất nghiêm trọng tại Tập đoàn xảy ra trong giai đoạn 2009-2015, Ban Thường vụ Đảng ủy Tập đoàn thiếu coi trọng kiểm tra, kiểm soát để cán bộ vi phạm pháp luật và công ty thua lỗ nhưng không bị xử lý về trách nhiệm. Việc nhận xét, đánh giá cán bộ khi được điều chuyển công tác thiếu chính xác, không làm rõ các khuyết điểm, vi phạm mà còn được điều chuyển công tác lên vị trí cao hơn trong bộ máy quản lý nhà nước như Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đình Duy. Trách nhiệm cũng thuộc về các bộ, ngành, cơ quan liên quan đã quản lý thiếu chặt chẽ, kém hiệu quả, thậm chí có lúc, có việc buông lỏng dẫn đến không phát hiện sai phạm để ngăn chặn kịp thời.

Về kiểm tra tài chính, ngân sách, đầu tư công cũng là vấn đề nổi cộm; vi phạm của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và các công ty thành viên như đầu tư ngoài ngành, bảo lãnh trái quy định gây thất thoát lớn tài sản không có khả năng thu hồi hàng chục ngàn tỷ đồng; chỉ định thầu trái pháp luật, vi phạm pháp luật về đấu thầu và những việc làm sai trái của Hội đồng thành viên, Ban Tổng giám đốc và người đứng đầu Tập đoàn xảy ra trong thời gian dài.

Kinh nghiệm rút ra là, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ công tác cán bộ và công tác quản lý tài chính tại các tập đoàn và tổng công ty nhà nước để phát hiện được những biểu hiện bất thường, không tuân thủ các quy định của Đảng và pháp luật, trên cơ sở đó báo cáo xem xét, quyết định kịp thời.

Những vi phạm chủ yếu nảy sinh từ các tổ chức đảng cấp dưới và sẽ được ngăn chặn kịp thời nếu như cấp ủy, UBKT các cấp chủ động nắm tình hình, phát hiện và kiểm tra, giám sát.

Dự án Formusa đã vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng, cho chủ đầu tư "làm trước, hoàn thiện thủ tục sau", vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Những vi phạm đó có thể không xảy ra hoặc được chấn chỉnh kịp thời nếu Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và UBKT Tỉnh uỷ chủ động vào cuộc ngay từ đầu, có trách nhiệm cao hơn nữa trong việc kiểm tra, giám sát đối với Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh khi thực hiện dự án và báo cáo xin ý kiến chỉ đạo, hỗ trợ của UBKT Trung ương và ngay cả Trịnh Xuân Thanh cũng chỉ là cán bộ thuộc Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý thuộc đối tượng kiểm tra của UBKT Tỉnh ủy Hậu Giang.

Để khắc phục tình trạng vi phạm trên một cách bài bản, có hệ thống, ngoài việc thực hiện giám sát thường xuyên, UBKT Trung ương và UBKT các cấp cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật của cấp ủy, UBKT cấp dưới và tăng cường xử lý trách nhiệm đối với những vi phạm ở địa bàn cấp mình phụ trách nhưng không phát hiện được để cấp dưới thực sự có sự chuyển động trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng và tránh việc bao che cho khuyết điểm vi phạm của đảng viên.

Bài học thứ tám: Chú trọng các đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước có liên quan sau khi xử lý các vụ việc vi phạm

Qua kiểm tra, giám sát không chỉ xem xét kỷ luật, mà ủy ban kiểm tra các cấp đã phát hiện, kiến nghị với Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành liên quan sửa đổi, bổ sung chính sách, quy định, chấn chỉnh các sơ hở trong cơ chế, chính sách. Mỗi thông báo kết luận của UBKT Trung ương hay của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều đề nghị các cơ quan có thẩm quyền rà soát, hoàn thiện pháp luật của Nhà nước.

Qua các vụ việc trên cho thấy, các quy định của Đảng và Nhà nước còn chưa thật sự hoàn thiện và đồng bộ, còn lúng túng trong xử lý kỷ luật về chính quyền đối với đồng chí nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công thương, trong khi đó kỷ luật Đảng phải đồng bộ với kỷ luật của chính quyền và đoàn thể.

Thời gian tới, Ban Cán sự Đảng Chính phủ cần phải chỉ đạo nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện Luật Cán bộ, công chức, Luật viên chức cho phù hợp với thực tế vi phạm xảy ra để xử lý cả đối với cán bộ, công chức đã nghỉ hưu nhưng có vi phạm khi đương chức; cũng qua vụ việc vi phạm xảy ra ở Hà Tĩnh và ở Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cho thấy, cần phải có sự hoàn thiện Luật bảo vệ Môi trường và Luật Đầu tư công để tránh đầu tư dàn trải và khắc phục sự thao túng của các "nhóm lợi ích" để làm những điều sai trái.

Hoàn thiện Luật phòng, chống tham nhũng và chú trọng xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, tiêu cực; có chế tài xử lý nghiêm khắc hơn đối với đảng viên có vi phạm về tham nhũng theo Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07-12-2015 của Bộ Chính trị khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có vi phạm về kê khai tài sản và kê khai tài sản không trung thực, xử lý nghiêm những cán bộ không tích cực thu hồi hoặc cản trở hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng và bổ sung việc xử lý những vi phạm đó vào Quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.

Việc chạy ra nước ngoài trong quá trình kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm trước khi bị khởi tố, điều tra đối với Trịnh Xuân Thanh cho thấy sự phối hợp của UBKT với các cơ quan tư pháp cần chặt chẽ hơn nữa; giữa quy định của Đảng và pháp luật còn có kẽ hở nên chưa có chế tài đủ mạnh để kịp thời ngăn chặn việc bỏ trốn của cán bộ, đảng viên vi phạm ra nước ngoài; công tác kiểm tra chỉ sử dụng phương pháp công tác đảng cần phải có sự đổi mới hơn, nghiên cứu sử dụng các biện pháp đặc thù cho phù hợp mới đủ sức ngăn chặn được vi phạm.

Đối với các vi phạm hiện nay, cần phải xử lý nghiêm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và XII, do đó cần nâng cao thẩm quyền kiểm tra và thẩm quyền kỷ luật của UBKT các cấp trong nhiệm kỳ tới để UBKT chủ động và có trách nhiệm cao hơn trong việc kiểm tra và xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm.

Phản hồi (1)

bach yen 12/09/2017

Bài viết quá bổ ích! Hiện nay có một vấn đề ở cơ sở, là: toàn bộ công tác kiểm tra, kỷ luật đảng viên có dấu hiệu vi phạm, kể cả cấp uỷ viên các cấp, đều phải bắt đầu từ chi bộ. Song nghiệp vụ công tác kiểm tra, kỷ luật đảng của đa số đảng viên, nhất là bí thư chi bộ rất hạn chế, thậm chí là không biết gì, dẫn đến khi có vụ việc, thì tính đảng, tính khoa học, tính hiệu quả trong công tác này không cao. Mong Tạp chí Xây dựng Đảng đi sâu phản ánh nhiều thêm về kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm vận dụng kỹ năng, nghiệp vụ kiểm tra, kỷ luật đảng để các chi bộ có thêm tài liệu tham khảo.

1

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất