“Tri nhân, tri kỷ” trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước, ông cha ta đã nhiều lần đánh bại quân xâm lược phong kiến phương Bắc, giành lại độc lập dân tộc, giữ yên bờ cõi. Đó là thắng lợi của tinh thần đoàn kết, của nền văn hoá nhân văn cao cả “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” mà tư tưởng xuyên suốt là “tri nhân, tri kỷ” - “biết người, biết ta trăm trận trăm thắng”. Cùng với chiến thắng ấy là sự ra đời của những áng “thiên cổ hùng văn” tuyên bố về nền độc lập dân tộc, khẳng định chủ quyền quốc gia. Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự tiếp nối tinh thần cốt lõi của các bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc và phát huy truyền thống “tri nhân, tri kỷ” lên tầm cao thời đại Hồ Chí Minh, tuyên bố khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả của 15 năm chiến đấu kiên cường và bền bỉ của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Kết quả ấy được thể hiện bằng hình ảnh cả dân tộc Việt Nam muôn người như một dâng lên như nước thuỷ triều để “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, đã làm nên thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả ba miền Tổ quốc. Sáng ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chiến khu Việt Bắc về Hà Nội, tại số nhà 48 phố Hàng Ngang trong gia đình ông Nguyễn Văn Bô, Người đã triệu tập và chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng. Trong số các quyết định quan trọng, Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh để Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân đồng bào và tuyên bố với thế giới về một nước Việt Nam chính thức ra đời.  

 

Đây là thời điểm vô cùng khó khăn. Bọn đế quốc đã cấu kết với nhau, chuẩn bị chiếm lại nước ta. Quân đội quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch tiến vào từ phía Bắc, đằng sau là đế quốc Mỹ. Quân đội Anh tiến vào từ phía Nam, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, Đông Dương đương nhiên thuộc về người Pháp. Trước tình hình đó, hơn ai hết, người viết bản “Tuyên ngôn Độc lập” thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh - Mỹ - Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương như nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày 15-8-1945. Vì vậy, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào Việt Nam và thế giới về sự ra đời của một quốc gia dân chủ cộng hoà đầu tiên ở châu Á mà còn thể hiện độc lập chủ quyền, cơ sở pháp lý của đất nước độc lập, tự do để “hiên ngang” đón quân Tưởng và quân Anh vào giải giáp quân Nhật.

 

Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam, Bác Hồ đã trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng và quyền lợi. Sự khác biệt xã hội chỉ có thể được thiết lập trên cơ sở lợi ích chung. Mục đích của mọi tổ chức chính trị là việc bảo toàn các nguồn lợi thiên nhiên và bảo toàn các quyền con người không thể bị tước bỏ. Các quyền đó là tự do, tài sản, sự an toàn, và quyền được chống lại mọi sự áp bức”.

 

Việc trích dẫn này của tác giả “Tuyên ngôn Độc lập” một mặt đề cao tư tưởng chính trị chứa đựng trong những lời trích dẫn “bất hủ” và “là những lẽ phải không ai chối cãi được” ấy đã phải đánh đổi bao xương máu, nước mắt của nhân dân Mỹ, nhân dân Pháp. Mặt khác, Người thừa nhận “chân lý cao cả” này không chỉ trường tồn trong lịch sử hai nước như những trang vàng mà còn được toàn nhân loại biết đến. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án hành động xâm phạm, áp bức các dân tộc, chà đạp nhân quyền Việt Nam gần một thế kỷ là hành động phi pháp, phi đạo lý và phi văn hóa của “nước mẹ”. Cách sử dụng thủ thuật “gậy ông đập lưng ông” không chỉ thể hiện sự khéo léo, tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mỹ mà là còn kiên quyết, nhắc nhở họ đừng phản bội lại tổ tiên mình, đừng “vấy bùn” lên lá cờ nhân đạo, tự do, bình đẳng, bác ái mà các cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ phải đánh đổi biết bao hy sinh mới giành được! Đây cũng chính là luận cứ, lý lẽ quan trọng để Bác đi đến kết luận: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đó là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, là “những lẽ phải không ai chối cãi được”.

 

Cụm từ “suy rộng ra” của Bác được rút ra từ luận cứ và lí lẽ “bằng vàng” trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, nhưng đó lại là “sự bổ sung rất trí tuệ của Bác: với cuộc đời của dân tộc mình và cuộc đời của biết bao dân tộc bị đoạ đày khác, Bác đã đưa ra một sự bổ sung vĩ đại, góp phần xoá bỏ một vết nhơ nhục nhã trong lịch sử loài người”. Để từ đó, hồn thiêng sông núi Việt Nam một lần nữa “vút cao” vang dậy trong Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố đanh thép với thế giới về nền độc lập dân tộc, đồng thời tố cáo chủ nghĩa thực dân Pháp đã trắng trợn chà đạp lên những quyền thiêng liêng ấy của dân tộc Việt Nam bằng khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, với chiêu bài “khai hóa văn minh” để xâm lược Việt Nam, áp bức đồng bào ta, đầu độc nhân dân ta, kìm hãm dân tộc ta trong sự bần cùng, suy nhược, đẩy nòi giống ta vào thảm họa diệt vong. Đó là hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.

 

Bằng thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ vạch trần sự áp bức tàn bạo của bọn thực dân, phát xít về mọi mặt. “Về Chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta…”. Về văn hóa, chúng “thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược…”. Về kinh tế, “chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy…”… mà còn ca ngợi sự gan góc, dũng cảm của nhân dân Việt Nam đứng về phe Đồng minh chống chủ nghĩa phát xít, giành lại quyền độc lập dân tộc. Trong cuộc chiến đấu ấy, thực dân Pháp đã không những không cùng với Việt Minh đứng về phe Đồng minh chống lại chủ nghĩa phát xít, không những “không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. Chính vì những lẽ đó, dân tộc Việt Nam “phải được tự do”, “phải được độc lập!”. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng quyền tự do và độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời là hợp với công lý và lẽ phải!

 

Từ những chứng cứ về tội ác của kẻ thù, Tuyên ngôn Độc lập ra đời giữa sự khao khát độc lập, tự do của 25 triệu đồng bào và lòng yêu nước cháy bỏng, lý tưởng cao cả của Hồ Chí Minh. Mặt khác, Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vang lên trên Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945 đã đánh một đòn phủ đầu mạnh mẽ vào âm mưu trắng trợn của các kẻ thù đang có mặt trên đất nước ta, hòng cướp chính quyền cách mạng còn non trẻ, trong số đó, đặc biệt phải kể đến âm mưu của thực dân Pháp, chúng đã chuẩn bị mọi mặt để quay lại xâm lược nước ta lần nữa. Tuyên ngôn còn thể hiện tầm nhìn xa, sự nhạy cảm về chính trị và thông hiểu về thế giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hơn ai hết, Người hiểu rằng giành được nền độc lập, quyền tự do, tự quyết cho dân tộc đã khó, nhưng để nền độc lập đó được tất cả các nước thừa nhận, tôn trọng còn khó hơn. Vì vậy, Tuyên ngôn Độc lập một lần nữa khẳng định giá trị nhân quyền của người dân Việt Nam, đồng thời nêu lên giá trị nhân văn của Nhà nước đối với bè lũ cướp nước và bán nước, vạch trần tội ác của phát xít Nhật, tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp”, tố cáo ý định quay trở lại Việt Nam của chúng và những kẻ thù chưa lộ mặt. Điều này chứng tỏ, Hồ Chủ tịch là con người của lịch sử, của những quyết sách lịch sử, là người lãnh đạo luôn “biết người, biết mình” trong mọi quyết sách lịch sử của dân tộc.

 

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà còn là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, ban hành Hiến pháp - đạo luật gốc, giữ vai trò như “thần linh pháp quyền” trong việc chi phối và điều hành mọi quan hệ xã hội. Vì vậy, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Hồ Chí Minh đã đề nghị với Chính phủ 6 nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó nhiệm vụ cấp bách thứ ba là soạn thảo và ban hành hiến pháp. Hình ảnh lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử dân tộc “tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống” đều có quyền sử dụng lá phiếu của mình để bầu ra bộ máy nhà nước “của dân, do dân và vì dân” trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội diễn ra vào ngày 6-1-1946, là cơ sở pháp lý nền tảng cho việc soạn thảo và ban hành Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1946 trịnh trọng tuyên bố: “Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại”. Hiếp pháp năm 1946 thể hiện đầy đủ tư cách Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, để tiếp tục đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.

 

Việc nhân dân bầu ra được bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật không chỉ là cơ sở quan trọng để Đảng ta vạch ra đường lối chiến lược, sách lược hoà hoãn với kẻ thù, từng bước chuẩn bị mọi mặt, đưa cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà dân tộc ta không thể tránh khỏi mà còn tạo ra một bộ máy nhà nước vững mạnh đủ sức tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thu non sông về một mối, đưa đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

 

Ngày nay, trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đã và đang ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới ở nước ta, chúng ta cần phải nhận thức đầy đủ hơn về đối tượng và đối tác trong quá trình hợp tác và phát triển; phải biết tận dụng triệt để đối tác để đấu tranh với đối tượng và có sách lược mềm dẻo để biến đối tượng thành đối tác. Đặc biệt, vấn đề tranh chấp trên biển Đông ngày càng nóng lên, trong đó có liên quan đến chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục kế thừa và phát huy tư tưởng “tri nhân, tri kỷ” trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh lên tầm cao mới. Một mặt, Việt Nam sẵn sàng hợp tác cùng phát triển với Trung Quốc và các đối tác ở những khu vực thực sự có tranh chấp theo luật pháp quốc tế quy định, mặt khác, kiên quyết phản đối các hoạt động sai trái của Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam ở hai quần đảo này, đi ngược lại tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông ký năm 2002 giữa ASEAN và Trung Quốc và Công ước Luật biển năm 1982, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp. Ngày 21-6-2012, trong kỳ họp thứ ba (khóa XIII), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật biển Việt Nam. Đây không chỉ thể hiện cách ứng xử khôn khéo của Đảng và Nhà nước ta mà còn là cơ sở pháp lý, chứng cứ xác thực để Việt Nam tuyên bố với thế giới về độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam. Các đảo này là một phần “máu thịt” không thể tách rời của dân tộc Việt Nam đã được Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Công ước Luật biển năm 1982 thừa nhận.

 

 

Phạm Thị Nhung

Trường sĩ quan Lục quân 2

Phản hồi (2)

nguỹen thuỳ linh 02/09/2012

Từng câu từng chữ của bài viết này như nhắc nhở chúng tôi về giá trị của Tết Độc lập và trách nhiệm bảo vệ nền độc lập ấy. Cảm ơn tác giả của bài viết này.

Hà Lâm 02/09/2012

Tôi rất trân trọng bài viết này. Giúp tôi một lần nữa về "tri nhân, tri kỷ" của dân tộc Việt Nam - nguồn cội để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược!

1

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất