Những ngày này toàn Đảng, toàn Dân và toàn quân ta đang náo nức trong không khí kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2024) và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 - 7-5-2024).
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội 5 châu, chấn động địa cầu đã buộc thực dân Pháp ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Giơ-ne-vơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, lập lại hòa bình ở Việt Nam. 21 năm sau, cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta kết thúc thắng lợi hoàn toàn bằng Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là bước ngoặt lịch sử của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai cuộc kháng chiến thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc ta, đồng thời mang tầm vóc quốc tế và tính thời đại sâu sắc. Những thắng lợi này bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng - kết tinh trí tuệ, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam.
Đó là xác định và thực hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Đó là xác định thực hiện đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, kiên định phương pháp cách mạng tổng hợp, gồm hai lực lượng chủ yếu là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Đồng thời, kiên trì thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công với phương châm: đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, kéo địch xuống thang từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch.
Đó là phát huy cao độ nghệ thuật quân sự và vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích được xây dựng vững mạnh, bố trí rộng khắp. Trong đó, các binh đoàn chủ lực giữ vai trò nòng cốt trong các chiến dịch, thực hiện tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Nắm vững quy luật chiến tranh, vận dụng và thực hiện sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, chúng ta đã từng bước chuyển hoá cục diện chiến trường theo hướng có lợi, luôn đánh địch trên thế mạnh, thế chủ động, thế bất ngờ.
Đó là coi trọng công tác đảng, công tác chính trị, trực tiếp định hướng tư tưởng cán bộ, đảng viên, khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt ở miền Bắc, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào miền Nam "thành đồng Tổ quốc". Tạo động lực chính trị - tinh thần to lớn cho đồng bào và chiến sĩ cả nước trong cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù xâm lược.
Đó là chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược có đủ tâm, đủ tầm và kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Những vị tư lệnh, chính uỷ các binh đoàn chủ lực mẫu mực, xông xáo, quyết đoán, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mãi mãi là những tấm gương sáng cho các thế hệ con cháu noi theo.
Đó là phát huy hiệu quả sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới với sự ủng hộ to lớn cả vật chất và tinh thần của cộng đồng quốc tế.
Nhân tố quyết định làm nên thắng lợi của các cuộc kháng chiến cần được kế tục, phát huy cao độ trong điều kiện hiện nay khi tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen. Vai trò lãnh đạo của Đảng chỉ được giữ vững và phát huy khi Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự "là đạo đức, là văn minh" như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định. Điều đó chỉ có được từ phấn đấu, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu và từ cơ chế khiến mỗi người không dám, không muốn và không thể vi phạm kỷ luật của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thu Nga