Sáng 25-11, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình tiếp tục trả lời 36 câu hỏi chất vấn của 18 đại biểu QH gửi tới cuối chiều ngày 24-11. Tiếp đó, 10 đại biểu khác đã tiếp tục nêu câu hỏi đối với Thống đốc.
Khẳng định lại những lý do cấp bách của việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, theo lộ trình tái cơ cấu, trong quý I-2012 sẽ thực hiện xong việc phân loại các ngân hàng và nâng cao tính thanh khoản của các ngân hàng. Bước tiếp theo (đến hết năm 2013) sẽ hoàn thành tái cơ cấu. Từ năm 2013 - 2015: tăng cường sức mạnh cho các ngân hàng, tiến tới năm 2020 có 4 ngân hàng có khả năng cạnh tranh quốc tế, trong đó có 1-2 ngân hàng được xếp loại ngân hàng lớn ở khu vực Đông Nam Á.
Bác bỏ nghi ngờ của một số đại biểu về “nhóm lợi ích” trong việc ấn định trần lãi suất huy động tiền gửi 14%/năm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước khẳng định, việc xác định trần lãi suất này đã được cân nhắc kỹ, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của các bên tham gia thị trường tiền tệ.
Về đề nghị áp dụng trần lãi suất cho vay thay vì trần lãi suất huy động của đại biểu Thân Đức Nam (Đà Nẵng) và một số đại biểu khác, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết, theo quan điểm của Ngân hàng Nhà nước, trong điều kiện của Việt Nam, việc điều hành bằng trần lãi suất huy động sẽ hiệu quả hơn, bởi quy định trần lãi suất cho vay sẽ dẫn đến hiện tượng cào bằng lãi suất cho vay, không phân biệt đối tượng vay, không khuyến khích được những lĩnh vực, đối tượng cần ưu tiên…
Về việc doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay, Thống đốc nói, vấn đề chính không phải là thiếu vốn mà là phải thực hiện mục tiêu khống chế tăng trưởng tín dụng để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất định sẽ được vay vốn. Đáng lưu ý, Thống đốc cho hay, trong 6 tháng đầu năm 2011, hàng ngàn cuộc thanh tra, kiểm tra đã được Ngân hàng Nhà nước tiến hành, nhưng chưa phát hiện được trường hợp nào vi phạm.
Về thương hiệu vàng miếng SJC, Thống đốc cho biết sẽ có nhiều điều chỉnh, bổ sung chính sách trong thời gian tới theo hướng khuyến khích sản xuất, chế tác vàng trang sức. Riêng vàng miếng, Nhà nước sẽ độc quyền sản xuất, kinh doanh. Việc này có thể ảnh hưởng đến lợi ích của một số đối tượng, nhưng là cần thiết, vì lợi ích chung của quốc gia. Hiện tại, SJC đang chiếm 90% thị trường vàng miếng, đây là công ty của Nhà nước, tới đây sẽ trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Để tiết kiệm được chi phí (hàng trăm tấn vàng miếng đã được sản xuất dưới thương hiệu SJC), trước mắt Ngân hàng Nhà nước sẽ sử dụng thương hiệu SJC, nhưng đến thời điểm thích hợp sẽ đổi thành SBV.
Kết thúc phần chất vấn, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nhận xét, Thống đốc đã trả lời với thái độ thẳng thắn, khẳng khái nhận trách nhiệm, nêu rõ những giải pháp…
Từ 10h, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội.
Tại Kỳ họp này, đã có 77 đại biểu QH gửi 145 phiếu chất vấn với 237 câu hỏi đến Thủ tướng và các thành viên Chính phủ; trong đó, có 8 phiếu với 11 câu hỏi chất vấn Thủ tướng. Hai ngày qua đã có 5 bộ trưởng trực tiếp và 2 Phó Thủ tướng cùng 6 Bộ trưởng tham gia trả lời chất vấn tại Hội trường.
Mở đầu phần trả lời, Thủ tướng đã giải trình những vấn đề mà đại biểu chất vấn các thành viên Chính phủ mấy ngày qua cũng là những trọng tâm mà Chính phủ tập trung điều hành trong thời gian tới. Sau phát biểu giải trình (Tạp chí giới thiệu toàn văn Báo cáo giải trình của Thủ tướng Chính phủ). Thủ tướng trả lời chất vấn. Có 22 đại biểu muốn chất vấn, tuy nhiên thời gian chỉ có hơn 1 tiếng. Chủ tịch QH đã điều hành để tất cả các đại biểu nêu câu hỏi, sau đó Thủ tướng trả lời.
Về yêu cầu bảo đảm tự do, an toàn hàng hải trên Biển Đông. Trả lời câu của đại biểu Lê Bộ Lĩnh (An Giang), Thủ tướng quán triệt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia của Đảng, Nhà nước ta; trên cơ sở Luật pháp quốc tế nhất là Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) đã ký giữa ASEAN và Trung Quốc; căn cứ vào Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết những vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc mới ký trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc vừa qua. Căn cứ trên đó chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên Biển Đông.
Thứ nhất, đàm phán với Trung Quốc để phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc bộ. Trong cửa Vịnh Bắc bộ, sau nhiều năm đàm phán hai bên đã đạt được thỏa thuận phân định ranh giới vào năm 2000. Còn vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc bộ, nếu theo Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc thì thềm lục địa của Việt Nam có chồng lấn với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Từ 2006, 2 bên đã tiến hành đàm phán, năm 2009 thì tạm dừng vì lập trường hai bên quá khác nhau. Đến 2010, 2 bên thỏa thuận nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Sau nhiều vòng đàm phán, nguyên tắc này đã được 2 bên ký kết trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa qua. Trên nguyên tắc này, vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc bộ là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, vì vậy 2 bên cùng nhau đàm phán để phân định ranh giới vùng biển này trên cơ sở Công ước Luật biển 1982, DOC, các nguyên tắc đã có để có giải pháp hợp lý mà 2 bên có thể chấp nhận được. Chúng ta đang thúc đẩy với Trung Quốc để xúc tiến đàm phán giải quyết việc phân định này. Trong khi chưa phân định, trên thực tế, với chừng mực khác nhau, 2 bên đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường trung tuyến. Trên cơ sở đó chúng ta có đối thoại với Trung Quốc để bảo đảm an ninh, an toàn của ngư dân.
Thứ hai, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử để khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự từ thế kỷ 17, khi 2 quần đảo này chưa thuộc bất cứ quốc gia nào. “Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ pháp lý, lịch sử để khẳng định điều đó. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, phù hợp với Công ước Luật biển, DOC.
Thứ ba, là đối với quần đảo Trường Sa. Năm 1975, hải quân Việt Nam đã tiếp quản 5 hòn đảo tại Trường Sa bao gồm: đảo Trường Sa, Song Tử Tây, Sơn Ca, Niêm Yết, Sinh Tồn. Sau đó, với chủ quyền của chúng ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo với 33 điểm đóng quân. Chúng ta xây dựng thêm 15 nhà giàn để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó, tại quần đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng chiếm 77 đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Philippines chiếm 9 đảo, Malaysia chiếm 5 đảo, Brunei cũng đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển nhưng không chiếm giữ đảo nào. Như vậy, trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên có đòi hỏi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống tại một số đảo mà chúng ta đang nắm giữ (21 hộ với 80 khẩu, trong đó 6 khẩu sinh ra và lớn lên tại đảo). Chủ trương của Việt Nam là nghiêm túc thực hiện Công ước Luật biển, DOC và nguyên tắc thỏa thuận mà 2 bên vừa ký trong chuyến thăm vừa qua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chúng ta yêu cầu các bên giữ nguyên hiện trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, ảnh hưởng đến hòa bình ở khu vực này. Bên cạnh đó, chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng xã hội, cơ sở vật chất những nơi chúng ta đang nắm giữ (đường sá, điện, trường học, trạm xá...) để cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của quân dân đảo Trường Sa. Chúng ta cũng có cơ chế chính sách (hiện đã có, đang đánh giá, sơ kết) để hỗ trợ ngư dân khai thác và thực hiện chủ quyền tại quần đảo này. Việt Nam nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên thực hiện đúng Công ước Luật biển, DOC, bảo đảm tự do, an toàn cho hàng hải ở Biển Đông. Vì đó là lợi ích, là mong muốn của tất cả các bên liên quan, vì tuyến đường này chiếm 50-60% tổng lượng hàng hóa từ Đông sang Tây.
Thứ tư, chúng ta phải khẳng định chủ quyền của chúng ta trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng biển và vùng đặc khu kinh tế của Việt Nam theo Công ước Luật biển 1982. Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền và quản lý ngày càng hiệu quả hơn vùng biển chủ quyền này.
Thủ tướng phát biểu trân trọng hoạt động, việc làm của người dân vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia
Cũng theo Thủ tướng, Luật Biểu tình không chỉ phù hợp với Hiến pháp mà còn phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm quyền tự do dân chủ của người dân theo đúng Hiến pháp, ngăn chặn những việc làm, hành vi gây xâm hại đến an ninh trật tự và lợi ích của xã hội, nhân dân.
Thủ tướng cũng khẳng định, chủ trương nhất quán của Đảng và Chính phủ là luôn trân trọng biểu dương, khen thưởng xứng đáng với tất cả hoạt động, việc làm của người dân vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia. “Nhưng cũng không hoan nghênh và buộc phải xử nghiêm theo pháp luật đối với những hành vi, động cơ lợi dụng danh nghĩa lòng yêu nước, bảo vệ chủ quyền để gây phương hại cho đất nước và xã hội. Tôi nghĩ với chủ trương nhất quán như vậy, đồng chí - đồng bào - cử tri cả nước sẽ ủng hộ”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Về xuất thô khoáng sản, Đại biểu Đặng Ngọc Quỳnh (Hưng Yên), đại biểu Lê Hồng Tịnh (Hậu Giang) cùng đặt câu hỏi với Thủ tướng về giải pháp để ngăn chặn khai thác khoáng sản trái phép, tận diệt môi trường. Đáp lời, Thủ tướng khẳng định, khoáng sản là quý hiếm, tài nguyên không tái tạo, ai cũng có phải có trách nhiệm giữ gìn, khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất.
Thứ nhất, yêu cầu chính quyền các địa phương, cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo ngăn chặn bằng được việc khai thác khoáng sản không phép hiện nay. “Không thể nói rằng khai thác khoáng sản trái phép trên địa bàn mà chính quyền không biết”, Thủ tướng cho biết.
Thứ hai, tạm dừng cấp phép khai thác khoáng sản mới, đồng thời với đó tiến hành rà soát các dự án đang khai thác. Dự án nào đang khai thác mà gây ô nhiễm, không có giấy phép, gây hư hỏng đường sá, mất an ninh trật tự... đều phải dừng ngay. Ngoài ra, tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch để khai thác theo hướng chế biến sâu đạt hiệu quả cao nhất.
Thủ tướng cũng nhấn mạnh, Chính phủ sẽ tiến hành kiểm soát xuất khẩu khoáng sản ngay từ các dự án. Tới đây, trên cơ sở rà soát, việc cấp phép khai khoáng mới phải đi liền với dự án khả thi đã được cấp có thẩm quyền thẩm định cả về chế biến sâu hiệu quả, môi trường, an ninh trật tự. Ngoài ra, Chính phủ sẽ tăng ngân sách cho việc tiếp tục điều tra, nghiên cứu về khai thác khoáng sản ở Việt Nam (hiện mới chỉ thăm dò 50% diện tích ở đất liền và 1% diện tích ở biển) để từ đó có chiến lược khai thác, xuất khẩu phù hợp.
Thông qua Nghị quyết về kết thúc dự án trồng mới 5 triệu ha rừng
Chiều 25-11, với 458 đại biểu tán thành, chiếm 91,6% tổng số đại biểu QH, QH đã thông qua Nghị quyết về kết thúc dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
Theo đó, QH ghi nhận Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu theo Nghị quyết số 08/1997/QH10 của QH khóa X, các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã được điều chỉnh theo Nghị quyết số 73/2006/QH11 của QH khóa XI; đồng ý kết thúc việc thực hiện các Nghị quyết nêu trên. Giao Chính phủ xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011 - 2020 theo cơ chế chương trình mục tiêu quốc gia và hàng năm báo cáo QH về tình hình thực hiện.
QH yêu cầu Chính phủ tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, bao gồm khẩn trương hoàn thành việc quyết toán và kiểm toán Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng theo quy định của pháp luật; bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có; bảo đảm kinh phí cho việc bảo vệ và phát triển rừng; ổn định quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp; đổi mới mô hình quản lý rừng theo chức năng từng loại rừng…
Cuối buổi chiều, QH đã xem xét, thảo luận về dự án Luật Biển Việt Nam.