Trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân lao động và giai cấp tư sản, vấn đề thời gian lao động có một ý nghĩa quan trọng. Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, C.Mác đã coi việc rút ngắn thời gian lao động là một trong những nhiệm vụ đấu tranh quan trọng của giai cấp vô sản.
Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế I (Hội Liên hiệp lao động quốc tế), họp tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ, tháng 9-1866, vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.
Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện ở một số nơi của nước Anh, nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác. Sau đó, do giới công nhân viên chức Anh di cư sang Mỹ, phong trào đòi làm việc 8 giờ bắt đầu phát triển mạnh ở nước Mỹ, đi đôi với nó là sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng các xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Năm 1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chi-ca-gô, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: “... Từ ngày 1-5-1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ”. Sở dĩ ngày 1-5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.
Ngày 1-5-1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chi-ca-gô. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy, họ tổ chức mít-tinh, biểu tình trên đường phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”. Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cũng trong ngày hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở Oa-sinh-tơn, Niu-Oóc, Ban-ti-mo, Bốt-stơn... hơn 125.000 công nhân đã đấu tranh và giành được quyền chỉ làm 8 giờ/ngày.
Những cuộc biểu tình tại Chi-ca-gô diễn ra ngày càng quyết liệt. Giới chủ đuổi những công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành phố bên cạnh, thuê bọn khiêu khích và cảnh sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của công nhân. Các xung đột xảy ra dữ dội khiến hàng trăm công nhân chết và bị thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn bị bắt... Báo cáo của Liên đoàn Lao động Mỹ xác nhận: “Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ lại có một cuộc nổi dậy mạnh mẽ, toàn diện trong quần chúng công nghiệp đến như vậy”.
Năm 1889, ba năm sau “thảm kịch” tại thành phố Chi-ca-gô, Quốc tế II (Liên minh quốc tế của các đảng công nhân), dưới sự lãnh đạo của Ph.Ăng-ghen, đã quyết định lấy ngày 1-5 hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản các nước. Từ đó, ngày 1-5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh của giai cấp công nhân, ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Năm 1920, dưới sự phê chuẩn của Lê-nin, Liên Xô là nước đầu tiên cho phép người dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1-5. Sáng kiến này dần dần được nhiều nước khác trên thế giới tán thành.
Tại Pháp, ngày 1-5-1891, một cuộc biểu tình lớn của công nhân đã xảy ra ở vùng Phuốc-mi-ê, miền Bắc nước Pháp. Để dẹp loạn, binh lính quốc gia đã xả súng và bắn chết 10 người trong đó có một cô gái tên là Ma-ri Blin-đô, mang trên mình bộ quần áo trắng tinh khiết. Để tưởng nhớ sự kiện này, người Pháp đã lấy hoa Linh lan, một loài hoa nhỏ có màu trắng, hương thơm dịu nhẹ, nở vào ngày đầu tiên của tháng Năm làm biểu tượng, linh hồn của ngày 1-5. Hằng năm, cứ vào dịp này, người Pháp náo nức trang hoàng nhà cửa và tặng bạn bè một bó hoa Linh lan.
Tại Đức, vào ngày 1-5, tất cả công nhân, người lao động đều được nghỉ trong dịp này. Theo truyền thống, mọi người thường cài một bông hoa cẩm chướng đỏ trên ve áo. Thói quen này bắt nguồn từ cuộc biểu tình ngày 1-5-1890, hôm đó những người tham gia đoàn diễu hành đã dùng hoa cẩm chướng đỏ làm dấu hiệu để nhận ra nhau.
Tại Ôt-xtrây-li-a, xứ sở của những chú Kăng-gu-ru, ngày Quốc tế Lao động thay đổi theo từng vùng. Vào ngày 1-5, chỉ một số Nghiệp đoàn của Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản tổ chức kỷ niệm trọng thể cho công nhân và người lao động. Nhưng ở miền tây, người dân lại lấy ngày 4-3 để nghỉ ngơi, vui chơi. Còn vùng Quyn-slen và miền bắc lại chọn ngày 6-5. Thủ phủ Can-bơ-ra, thành phố lớn Sít-nây và miền nam Ôt-xtrây-li-a thì lấy ngày 7-10.
Tại Việt Nam, sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam đã lấy ngày l-5 hằng năm làm ngày đỉnh cao của phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập - tự do - dân chủ, giành những quyền lợi kinh tế-xã hội. Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, việc kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đặc biệt, ngày 1-5-1938, một cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người đã diễn ra ở khu Đấu xảo Hà Nội với sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in, nông dân, phụ nữ, người cao tuổi, nhà văn, nhà báo... Đây là cuộc mít-tinh lớn nhất trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939), một cuộc biểu dương sức mạnh đoàn kết của nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của Đảng ta.
Ngày nay, Ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày biểu thị tình đoàn kết hữu nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nguyễn Bá Thắng (tổng hợp)