Cũng ở giai đoạn này, phát hiện trong gan của một người bệnh có giun chui các đường ống mật, ông đã nảy ra ý tưởng dùng những lá gan bị nhiễm giun để phẫu tích cơ cấu của lá gan. Trong suốt thời gian từ năm 1935 đến 1939, chỉ bằng một con dao nạo thô sơ, ông đã kiên nhẫn, miệt mài phẫu tích trên 200 lá gan của tử thi để nghiên cứu các mạch máu và vẽ lại thành các sơ đồ đối chiếu. Trên cơ sở đó, ông đã viết và bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp bác sĩ y khoa với nhan đề “Cách phân chia mạch máu của gan”. Với bản luận án này, ông đã được tặng Huy chương Bạc của Trường Đại học Tổng hợp Pa-ri. Bản luận án được đánh giá rất cao và trở thành tiền đề cho những công trình khoa học nổi tiếng của ông.
Xây dựng một nền y học Việt Nam hiện đại
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông được Việt Minh giao nhiệm vụ chữa bệnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong thời gian đó, ông đã viết cuốn sách tóm tắt kinh nghiệm nghiên cứu với chủ đề “Viêm tụy cấp tính và phẫu thuật”. Đây là cuốn sách khoa học thuộc ngành Y được xuất bản đầu tiên tại nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
GS. Tôn Thất Tùng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
thăm bệnh viện Việt Đức sau ngày Hà Nội giải phóng (10-1954).
Một thời gian sau, ông được cử làm Giám đốc bệnh viện Phủ Doãn và cùng với GS. Hồ Đắc Di, ông đã bắt tay xây dựng Trường Đại học Y Hà Nội. Sau khi Pháp nổ súng xâm lược trở lại Đông Dương, ông tham gia tổ chức cứu chữa thương bệnh binh, xây dựng các tuyến phẫu thuật ở mặt trận Tây Nam Hà Nội cùng các bác sĩ Nguyễn Hữu Trí, Hoàng Đình Cầu... Trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, ông vẫn tham gia tổ chức điều trị, phát triển ngành y, đồng thời với nghiên cứu khoa học, đào tạo sinh viên, xây dựng nền tảng trường Y khoa Việt Nam, dù phải di chuyển nhiều lần ở nhiều địa bàn như Vân Đình, Hà Đông (1946), Lăng Quán, Tuyên Quang (1947), Phù Ninh, Phú Thọ (1948), Đại Lục, Phú Thọ (1949), Chiêm Hóa, Tuyên Quang (1950)... Ông cũng được cử làm làm cố vấn phẫu thuật ngành quân y ở Bộ Quốc phòng. Cũng trong thời gian này, cùng với GS. Đặng Văn Ngữ, ông đã góp phần điều chế ra thuốc Pê-ni-xi-lin phục vụ thương bệnh binh trong điều kiện dã chiến khốc liệt và thiếu thốn. Năm 1947, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế và đảm nhiệm chức vụ này cho tới năm 1961.
Từ năm 1954, ông làm Giám đốc bệnh viện Hữu nghị Việt Đức và giữ cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại, Đại học Y Dược Hà Nội. Ông đề cao việc tiếp thu y học phương Tây để xây dựng và phát triển nền y học nước nhà, nghiên cứu bệnh tật và chữa trị cho người dân, đi đầu trong việc áp dụng các kỹ thuật phát triển ngành ngoại khoa Việt Nam. Ông là người đầu tiên mổ tim ở nước ta vào năm 1958. Trong những năm 1960, ông đã nghiên cứu thành công phương pháp “cắt gan có kế hoạch”, thường được gọi là “phương pháp mổ gan khô” hay “phương pháp Tôn Thất Tùng”. Ông cũng là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu tác hại của chất độc hóa học đi-ô-xin đến con người và môi trường tại Việt Nam, phương pháp điều trị các vết thương do bom bi, phương pháp điều trị ung thư gan bằng phẫu thuật kết hợp dùng miễn dịch và rất nhiều công trình khoa học khác.
Những thành tựu và cống hiến
GS, bác sĩ Tôn Thất Tùng là một người say mê nghiên cứu khoa học y học với mong muốn đưa nền y học Việt Nam sánh ngang các nước trên thế giới. Ngoài công trình về cách phân chia mạch máu trong gan gửi về Viện hàn lâm khoa học Pháp, được tặng Huy chương Bạc của Trường Đại học Tổng hợp Pa-ri, ông còn để lại 123 công trình khoa học, đặc biệt là một trong những nhà khoa học đầu tiên xây dựng phương pháp mổ gan mang tên ông.
Với những thành tựu và đóng góp to lớn cho nền y học nước nhà, GS. Tôn Thất Tùng đã được trao tặng nhiều danh hiệu và giải thưởng như: Anh hùng Lao động (1962), Viện sĩ viện Hàn lâm Y học Liên Xô, Hội viên Hội quốc gia những nhà phẫu thuật Cộng hòa Dân chủ Đức, Thành viên Viện Hàn lâm phẫu thuật Pa-ri, Hội viên Hội Những nhà phẫu thuật Ly-ông (Pháp), Thành viên Hội Quốc gia Những nhà phẫu thuật An-giê-ri, Huy chương phẫu thuật quốc tế Lan-nơ-lông-gơ (1977), Huân chương Hồ Chí Minh (1992), Huân chương lao động hạng Nhất, Huân chương chiến sĩ hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng Ba, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 (1996). Từ năm 2000, Nhà nước ta đã đặt ra một giải thưởng về Y học mang tên ông: Giải thưởng Tôn Thất Tùng.
Ông là đại biểu Quốc hội liên tục từ khóa II đến khóa VII và giữ chức vụ Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Gia đình
Năm 1944, ông kết hôn cùng bà Vi Thị Nguyệt Hồ, từng được xem là một hoa khôi đất Hà Thành, con gái của Tổng đốc Hà Đông Vi Văn Định. Ông bà có ba người con, tất cả đều theo ngành y, trong đó nổi tiếng nhất là PGS, viện sĩ, bác sĩ Tôn Thất Bách, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội.
GS, bác sĩ Tôn Thất Tùng mất ngày 7-5-1982 tại Hà Nội. Tối hôm trước ngày mất, trong bữa cơm gia đình thân mật tại nhà riêng ở phố Lê Thánh Tông, ông còn chuyện trò sôi nổi với những người đồng chí thân thiết như GS Hồ Đắc Di, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, GS Trần Đại Nghĩa... Sự ra đi đột ngột của GS Tôn Thất Tùng đã để lại niềm thương tiếc khôn nguôi trong giới y học cũng như nhiều thế hệ người dân Việt Nam.
30 năm đã trôi qua kể từ ngày GS. Tôn Thất Tùng mãi mãi về cõi vĩnh hằng, những người thầy thuốc và nhân dân Việt Nam cũng như bạn bè thân thiết trên thế giới vẫn khắc ghi hình ảnh vị giáo sư với một cuộc đời trong sáng, một sự nghiệp vinh quang và những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, cho nền y học Việt Nam và thế giới.
Cố Bộ trưởng Bộ Y tế Đặng Hồi Xuân đã có những lời nhận xét thật thấm thía: “Cuộc đời của GS Tôn Thất Tùng là một bài học sống động và phong phú, một tấm gương trong sáng đối với những người đang sống, nhất là đối với những người làm công tác khoa học và đối với thanh niên...”.