Trần Đại Nghĩa - Người trí thức đáng kính
Vợ chồng GS, VS.Trần Đại Nghĩa trong một lần gặp gỡ với giới khoa học

Vượt lên đói nghèo, nuôi dưỡng đam mê

Thuở nhỏ, ông có tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13-9-1913, tại xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Cha ông, Phạm Quang Mùi, là một nhà nho nghèo, dạy học có uy tín trong vùng, luôn giúp đỡ những học sinh nghèo nên rất nhiều người thương mến cậu bé Phạm Quang Lễ. Cha mất sớm, mẹ là bà Phạm Thị Diệu và chị gái (hơn ông hơn 1 tuổi) phải nghỉ học để phụ giúp mẹ, đỡ đần cho cả nhà đỡ vất vả, nuôi ông ăn học ở bậc tiểu học.

 

GS, VS Trần Đại Nghĩa kể, vì gia đình vất vả, lại ở vùng quê nghèo nên ông đi học chiụ đói, lạnh là lẽ thường. Đi học, ông thường được chị gái chèo vỏ lãi đưa qua sông Măng. Do vậy, dòng sông Măng in đậm trong ông nổi nhớ thương mẹ và người chị gái.  

 

Xong tiểu học, ông đậu học bổng lên bậc trung học ở Sài Gòn. Khi bước chân vào trường Fêtrút Ký (nay là trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong) ông thuộc vào loại học sinh nghèo nhất của trường. Song vì chăm chỉ, chuyên cần, thông minh nên được thầy tin, bạn mến. Khoảng 20 tuổi, học xong bậc trung học tại trường Fêtrút Ký Sài Gòn với hoài bão được tiếp thu các thành tựu khoa học thế giới… nhưng vì nhà nghèo, Trần Đại Nghĩa không thể ra Hà Nội học đại học, đành trở về TP. Mỹ Tho làm một chân thư ký “quèn” để kiếm tiền giúp mẹ và chị trong cuộc sống. Thời gian này ông có tự học thêm về luật. Hai năm sau, ông Dương Văn Ngưu, một nhà báo yêu nước, mến mộ tài và chí của Trần Đại Nghĩa, đã giúp ông thi đậu suất học bổng của Trường Chasseloakp Laubat - Pháp.

Trong thời gian này, tại Sài Gòn và Nam Bộ, những phong trào yêu nước (phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, đám tang cụ Phan Chu Trinh, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh...) tác động nhiều đến tình cảm yêu nước của ông, khơi dậy trong ông sự quan tâm nghiên cứu những vấn đề lịch sử dân tộc. Sau này ông cho biết, khi sang Pháp, ông đặc biệt quan tâm nghiên cứu giai đoạn chống thực dân Pháp và tự tìm hiểu nguyên nhân tại sao người dân đất nước mình đều rất trung kiên, mà cuộc khởi nghĩa nào rồi cũng đi vào thế thất bại. Và ông đã rút ra nguyên nhân quan trọng là thất bại của các phong trào yêu nước từ đầu thế kỷ XIX đến bấy giờ do không chịu tiếp thu thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ huật lần thứ nhất (đối với triều đình Nhà Nguyễn), thiếu vũ khí cần thiết (đối với các phong trào yêu nước của các sĩ phu). Và tại Pa-ri, lúc bấy giờ hoài bão của ông được hun đúc bằng ý chí của một trí thức yêu nước: Tham gia nghiên cứu khoa học và chế tạo vũ khí cho cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân để giải phóng đất nước.

 

Tại Pháp ông say mê nghiên cứu nhiều lĩnh vực, cho nên ngoài Đại học Cầu - đường ông còn học thêm nhiều trường đại học như Bách khoa, Hoá học… tại Đại học Sóc-bon nổi tiếng thế giới, với mục đích là nắm thêm  kiến thức chuyên sâu để sau này về nước có cơ hội phục vụ nước nhà, nhất là các kiến thức chuyên sâu về hoá học, vũ khí…. Và thế là trong 11 năm ở Pháp, người kỹ sư cầu đường Trần Đại Nghĩa vừa là một chuyên gia am hiểu về chất nổ, các phản ứng hoá học, cầu đường, hàng không… vừa được tuyển vào làm kỷ sư chính trong một hãng chế tạo máy bay ở Pháp, với mức lương tương đương 22 lượng vàng/tháng lúc đó.

 

Theo Bác Hồ về nước tham gia kháng chiến

Ngày 5-7-1946, cùng với hàng vạn Việt kiều tại Pháp, kỹ sư Trần Đại Nghĩa ra sân bay Le - Beu-get để đón Bác Hồ và đoàn lãnh đạo cấp cao Chính phủ ta mới thành lập sau Cách mạng Tháng Tám. Từ ngày đó, những chuyến thăm, làm việc của Bác với bà con kiều bào, trí thức Việt Nam tại Pháp đều được kỹ sư Trần Đại Nghĩa tháp tùng. Suốt 2 tháng liền sống và đi thăm các điểm, bà con Việt kiều với Bác (từ tháng 7-1946 đến tháng 9-1946), kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã báo cáo với Bác tất cả những điều mình biết về chiến tranh thế giới lần thứ 2, đặc biệt về quá trình làm việc, học tập, nghiên cứu của bản thân mình. Ngày 8-9-1946, Bác Hồ cho gọi Trần Đại Nghĩa đến cho biết là Hội nghị Phông-te-nơ-blô đã không thành công và bảo ông: “Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác. Hai ngày nữa ta lên đường”. Giữa tháng 9-1946, kỹ sư Trần Đại Nghĩa cùng đoàn của Bác Hồ đã rời cảng Tu-lông nước Pháp về Việt Nam. Sau 40 ngày lênh đênh trên biển của chiến hạm Đuy mông Đuy-êc-vin của Pháp, ngày 20-10-1946, Bác Hồ cùng các bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư Võ Quí Huân, Vũ Đình Huỳnh và kỹ sư Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa) cập cảng Hải Phòng.

 

Sau này, GS Trần Đại Nghĩa nhớ mãi lớp chính trị Bác Hồ dạy trong 40 ngày ấy đó là lớp chính trị đầu tiên, có hiệu quả rất lớn trong đời ông. Ông kể, lúc tới cảng đêm 11-8-1946, trời tối, trên tàu còn có một mình Bác và tôi, Bác chỉ hỏi tôi có hai câu. Câu thứ nhất “Bây giờ ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu nổi không?”. Tôi trả lời: “Thưa Bác, tôi chịu nổi”. Câu thứ hai Bác hỏi là: “Bây giờ ở nhà kỹ sư, công nhân về vũ khí không có. Máy móc thiếu, liệu chú có làm được việc không?”. Tôi nói: “Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị 11 năm rồi và tôi tin là làm được”.

 

Đối với Trần Đại Nghĩa, những điều mà Bác dạy ông và các trí thức trong hai tháng ở Pháp và 40 ngày lênh đênh trên biển đã tác động lớn, là sự cảm hóa tuyệt vời để khi về nước làm việc và cống hiến.

 

Sau khi về nước được một tuần, Trần Đại Nghĩa được điều lên Thái Nguyên chế tạo súng, đạn chống xe tăng theo mẫu Ba-dô-ca lấy từ mẫu đạn trong kho vũ khí của quân đội Nhật để lại. Công việc đang tiến hành thì thực dân Pháp bắn phá Hải Phòng, Bộ Quốc phòng cho gọi ông về Hà Nội. Và ngày 5-12-1946 (đúng hai tuần trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ) tại Bắc bộ phủ, Bác Hồ đã trực tiếp giao cho kỹ sư Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục quân giới và chính Người đặt tên mới cho ông là Trần Đại Nghĩa - theo Bác là để giữ bí mật cho ông và cho gia đình, cho bà con ông còn ở trong miền Nam.

 

Những phát kiến quan trọng về vũ khí, về kỹ thuật quốc phòng ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến đã được kỹ sư Trần Đại Nghĩa nghiên cứu, tự chế tạo các loại lựu đạn, súng phóng lựu, súng cối 50,8 ly, mìn phá xe... để kịp thời phục vụ cuộc chống trả 9 tuần lễ tiến công của thực dân Pháp ngay ở Thủ đô.

 

Khi kháng chiến lan ra toàn quốc, Bác Hồ, Trung ương Đảng lên chiến khu, ông cùng lên chiến khu để nghiên cứu, chế tạo vũ khí trong điều kiện thiếu thốn mọi bề. Khi ở chiến khu Việt Bắc, thấy có nhiều phân dơi, Trần Đại Nghĩa đã chỉ đạo lấy diêm tiêu trong phân dơi làm thuốc súng, lấy đường ray xe lửa loại cũ làm nòng súng cối 50,8 li, rồi lấy bình ôxy làm nòng súng cối 205 li, v.v. Trần Đại Nghĩa đã chế tạo thành công súng ba-dô-ca trên cơ sở thiết kế lại toàn bộ quả đạn ba-dô-ca của Mỹ cho phù hợp điều kiện tác chiến của chiến trường Việt Nam. Tác dụng lớn là loại súng do Trần Đại Nghĩa chế tạo không chỉ có tác dụng chống xe tăng, xe bọc thép, mà còn có tác dụng đánh tàu chiến chạy gần bờ hoặc dập tắt hỏa lực hay bắn tan đội hình địch tập trung quân đông. Ngày 5-3-1947, trong trận phục kích trên đường số 6 tại xóm Trầm (cách Hà Nội khoảng 30 km), những quả đạn ba-dô-ca bất ngờ bắn vào đội hình xe tăng của Pháp, buộc đoàn xe phải quay đầu chạy về Hà Nội.

 

Chính loại súng ba-dô-ca đó đã phục vụ kịp thời và có hiệu quả trong chiến dịch Thu Đông 1947-1948 mà thực dân Pháp khiếp sợ, gọi là chiến dịch Xta-lin-grat. Ngay giữa chiến dịch, năm 1947, năm chuẩn bị giai đoạn đánh tập trung của bộ đội chủ lực, Trần Đại Nghĩa được Bác Hồ và Trung ương Đảng chỉ định làm Cục trưởng Cục pháo binh kiêm Cục trưởng Cục quân giới. Sau chiến dịch này Trần Đại Nghĩa được phong tặng quân hàm thiếu tướng.

 

Từ một trí thức, rồi theo Bác Hồ về nước, trở thành người đảng viên trung kiên, tận tụy với nghề chế tạo, Trần Đại Nghĩa đã phát minh ra những sáng chế rất quan trọng về vũ khí cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau khi được Đảng, Nhà nước cử làm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Chủ nhiệm Ủy Ban xây dựng cơ bản Nhà nước và Ủy Ban khoa học kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, đồng thời là Chủ tịch các Hội liên hiệp khoa học kỹ thuật Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô và Cộng hòa dân chủ Đức… Trên cương vị nào ông cũng để lại những tình cảm tốt đối với các sỹ quan, các nhà quân sự của đất nước, cũng như giới trí thức của 2 miền. Khi được nghỉ hưu, ông và gia đình vào sống tại quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh nhưng ông vẫn tiếp tục công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước của Viện Khoa học Việt Nam. 

 

Những ngày cuối đời, GS, VS Trần Đại Nghĩa vẫn luôn khắc khoải về hình ảnh người mẹ và chị ruột của mình trên dòng sông Măng vì lúc mẹ mất, ông ở Pháp nên không được về chịu tang mẹ. GS, VS Trần Đại Nghĩa đã qua đời năm 1997 tại TP. Hồ Chí Minh, để lại nhiều cống hiến lớn lao cho Tổ quốc. Ngày nay tên ông đã được đặt cho ngôi trường chuyên ở TP.Hồ Chí Minh, cũng như nhiều giải thưởng khoa học trong nước đã mang tên Viện sỹ Trần Đại Nghĩa như luôn nhớ về một nhà khoa học lớn, đã có công lao, đóng góp quan trọng trong sự phát triển kỹ thuật quân sự của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.

 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất