Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Trưởng ban Chỉ đạo Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng trao giải cho các tác giả, nhóm tác giả đoạt giải B.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng. Làm thế nào để Đảng cầm quyền nhưng không bị tha hóa là niềm trăn trở của mọi đảng viên chân chính.Đảng ta khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(1). Quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải “kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng” vì đó là những “lõi vàng văn hóa” được hun đúc, kết tinh trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó cũng là “thẻ căn cước” mà người cộng sản phải giữ gìn, bảo vệ như con ngươi của mắt mình...
Bài 1: “Pháp bảo” của đội tiên phong
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của Đảng ta, là một trong những nội dung chủ yếu quy định bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Giáo sư Bùi Phan Kỳ từng ví nguyên tắc này như là “pháp bảo” của Đảng để loại bỏ các khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chẳng những các thế lực thù địch, phản động chĩa mũi nhọn tấn công mà ngay trong nội bộ của Đảng, một số đảng viên, trong đó có cả những người từng là lãnh đạo cấp cao đặt vấn đề đòi xóa bỏ nguyên tắc này. Một bộ phận đảng viên, tuy thừa nhận nguyên tắc nhưng thực tế sinh hoạt lại vi phạm nguyên tắc.
Tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng khóa XII, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; UBKT Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên(2). Nhiều cán bộ cấp cao là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, bộ trưởng, thứ trưởng, tướng lĩnh... bị kỷ luật. Nguyên nhân bị kỷ luật đa dạng nhưng có một nguyên nhân chung là hầu hết các trường hợp trên đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Ảnh: Chinhphu.vn
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, khi đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương (năm 2002) đã nhận xét: Trước hết phải thừa nhận rằng, tất cả những người đòi xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, dù thuộc thế lực thù địch, chống cộng hay bất mãn, cơ hội hoặc mơ hồ, kém hiểu biết đều có một phần căn cứ thực tế. “Đó là tình trạng mất dân chủ ở không ít đảng cộng sản và không ít nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong suốt một thời gian dài trước đây. Thậm chí có lúc, có nơi mất dân chủ rất nghiêm trọng. Một số nhà lãnh đạo trên thực tế đã quan liêu, xa dân, độc đoán, gia trưởng, có người rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa phong kiến quân phiệt, gần như biến thành một ông vua đầy quyền lực và tham vọng. Những hiện tượng cán bộ lãnh đạo trù dập, ức hiếp quần chúng là có thật. Những hiện tượng nội bộ đấu đá nhau, tranh giành quyền lực, mưu hãm hại nhau, đối xử tàn tệ với nhau, là có thật. Nhiều trường hợp quyền dân chủ của đảng viên, của nhân dân không được tôn trọng và phát huy; hoạt động của cơ quan dân cử nhiều khi hình thức, không có thực quyền(3).
Trên thế giới hiện nay, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, một số đảng cộng sản đã hoang mang, dao động, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ nên trên thực tế đã biến đảng thành một câu lạc bộ. Đảng ta, từ khi ra đời cho đến nay, luôn lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động, cho nên trong những thử thách ngặt nghèo của cách mạng, có lúc phạm phải sai lầm nhưng rốt cuộc vẫn vượt qua nhờ luôn kiên định với nguyên tắc sống còn này. Toàn bộ Điều lệ Đảng hiện hành, ngoài đoạn mở đầu khái quát về quá trình hình thành, bản chất, tôn chỉ, mục đích của Đảng, tất cả các chương, điều còn lại đều thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trên các mặt hoạt động của Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ do Lênin đề xuất và chính ông đã tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng với những người cơ hội trong quá trình xây dựng Đảng Bolshevik Nga, nhằm xây dựng đảng thành đội tiên phong thực sự của giai cấp công nhân. Nói về nội dung nguyên tắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh có cách diễn đạt rất ngắn gọn và dễ hiểu: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”(4).
Trong nội bộ Đảng ta, những ý kiến đòi phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ ngày càng lạc lõng nhưng đáng báo động là tình trạng lợi dụng và vi phạm nguyên tắc này. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Một số cấp ủy, tổ chức đảng đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm kéo dài”(5). Trong bài viết này, nhóm tác giả xin đề cập một số hình thái vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ như sau:
Một là, dân chủ hình thức, giả hiệu, giả vờ, ra vẻ có dân chủ nhưng thực chất là có rất ít hoặc không có dân chủ. Đây là “căn bệnh” ở không ít cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Biểu hiện cụ thể như: Sử dụng quyền lực tạo ra sự “đoàn kết xuôi chiều”, khiến mọi người chấp nhận “im lặng” trước các vấn đề của tập thể. Bố trí thời gian sinh hoạt dân chủ gấp gáp, chớp nhoáng khiến đảng viên, cấp ủy viên không kịp chuẩn bị hoặc không có cơ hội bày tỏ chính kiến. Cho đảng viên, cấp ủy viên phát biểu, biểu quyết về những vấn đề viển vông, không thiết thực đối với chính cấp ủy, tổ chức đảng ở đó hoặc những vấn đề mà bản thân họ không đủ thông tin, buộc phải “nhắm mắt” phát biểu hoặc biểu quyết cho xong chuyện. Sử dụng chiêu trò “cáo mượn oai hùm”, cho rằng vấn đề này đã được cấp có thẩm quyền quyết định để hướng lái nhận thức và quyết định của cấp dưới. Đề nghị tập thể “dân chủ thảo luận” nhưng không chấp nhận ý kiến khác biệt. Chọn “cử tri chuyên trách” trong các cuộc tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND, đại biểu Quốc hội...
Dân chủ hình thức, giả hiệu, giả vờ giống như thuốc giả, nó không chữa được bệnh mà còn làm mất tín nhiệm vào thuốc thật. Dân chủ hình thức, giả hiệu, giả vờ không thể giải quyết được bất cứ mục tiêu, yêu cầu nào đặt ra, nhưng lại xuyên tạc, làm mất ý nghĩa, vô hiệu hóa dân chủ, phá hoại mọi niềm tin vào dân chủ thật sự. Xét trên khía cạnh đó, dân chủ hình thức, giả hiệu, giả vờ đang là căn bệnh nguy hại nhất hiện nay, khó đấu tranh hơn cả mất dân chủ. Ví dụ điển hình là vụ “quan lộ thần tốc” của ông Lê Phước Hoài Bảo, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Nam. Ông được bổ nhiệm ở tuổi 30 “đúng quy trình”, với sự “nhất trí cao” của tập thể thường vụ tỉnh ủy do “đồng chí bố” là người đứng đầu?!
Hai là, lạm quyền, vượt quyền. Không ít nơi đang có tình trạng bí thư lạm quyền, vượt quyền ban thường vụ, ban thường vụ lạm quyền, vượt quyền ban chấp hành, ban chấp hành tự ý làm trái nghị quyết đại hội.
Sự lạm quyền, vượt quyền hiện biến tướng rất tinh vi. Nhiều bí thư cấp ủy cố tình chuẩn bị quy chế làm việc một cách chung chung, nhiều khoảng trống, kẽ hở để khâu tổ chức thực hiện dễ dàng hướng lái theo ý đồ của mình. Nhiều trường hợp bí thư cấp ủy viện lý do “khẩn cấp” để không họp thường vụ hoặc ban chấp hành, tiến hành “xin ý kiến” cá nhân từng ủy viên để dễ bề thao túng hoặc thậm chí ra quyết định không đúng thẩm quyền.
Ba là, vi phạm kỷ luật phát ngôn. Nguyên tắc tập trung dân chủ cho phép mọi đảng viên đều có quyền được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. Nguyên tắc cũng quy định quyền dân chủ thảo luận và bảo lưu ý kiến của đảng viên nhưng thiểu số phải phục tùng đa số, những ý kiến của thiểu số không được phép tuyên truyền ra ngoài. Tuy nhiên hiện nay, tình trạng “đồng ý mà không đồng lòng”, “trong Đảng nói thế này, ra ngoài nói thế khác”, “nói một đằng, làm một nẻo”, lúc nghỉ hưu nói khác lúc đương chức. Thậm chí, có đảng viên luôn miệng “lập trường kiên định vững vàng” nhưng trong đời thường lại có lời nói, việc làm hoài nghi, vi phạm nền tảng tư tưởng và Cương lĩnh, nghị quyết của Đảng.
Bốn là, tệ tập trung quan liêu, độc đoán, gia trưởng, chuyên quyền. Đây là kiểu vi phạm đặc trưng của những đảng viên có chức, có quyền, nhất là những người đứng đầu. Những người này thủ tiêu dân chủ, bỏ qua hoặc sẵn sàng đàn áp những góp ý của cấp dưới và quần chúng, biến cơ quan, đơn vị, địa phương thành “vương quốc” riêng của mình, vô hiệu hóa những chỉ đạo của cấp trên, ném các sáng kiến của quần chúng nhưng không có lợi cho cá nhân mình vào thùng rác. Trong tình hình hiện nay, trước những tiến bộ đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểu vi phạm này có biến tướng tinh vi hơn để thích ứng. Những người đứng đầu tìm cách biến nguyên tắc tập trung dân chủ thành bình phong để thực hiện “lợi ích nhóm” của người đứng đầu hay một nhóm người.
Những cá nhân, tập thể thực hiện vi phạm này thường lợi dụng quyền lực để vận động, mua chuộc, lôi kéo thậm chí đe dọa, đàn áp đảng viên, cấp ủy viên “bỏ qua” các việc làm vi phạm nguyên tắc của mình. Khi đơn vị có thành tích thì nhận là của cá nhân, khi đơn vị có khuyết điểm thì đổ lỗi cho tập thể. Vì thế mới có chuyện, người đứng đầu vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước nhiều năm liền nhưng vẫn được khen thưởng, tổ chức đảng ở đó vẫn nhiều năm được cấp trên công nhận là tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu...
Bốn biểu hiện vi phạm trên cùng với các biểu hiện vi phạm khác có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuy hình thức biểu hiện khác nhau nhưng đều rất nguy hại, là nguyên nhân làm suy yếu sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; là “con đường” dẫn đến chủ nghĩa cá nhân, sa vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Ba nhiệm kỳ gần đây (khóa XI, XII và XIII), Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện một cách ráo riết, quyết liệt, có hiệu quả. Toàn bộ những hoạt động đó về thực chất đã thúc đẩy trình độ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong toàn Đảng lên một tầm cao mới. Để “pháp bảo” của Đảng phát huy vai trò, tác dụng trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay; cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng về nguyên tắc tập trung dân chủ; làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc này trong tình hình mới; kiên trì và kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc và loại bỏ những biểu hiện vi phạm trong sinh hoạt Đảng. Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ vào quy chế, quy định của cấp mình; mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong mỗi cấp ủy, tổ chức đảng.
Bảo vệ nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng bao giờ cũng phải đi kèm với việc thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình. Và đó cũng là chủ đề mà chúng tôi gửi tới bạn đọc ở bài viết tiếp theo.
----------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004, tập.37, tr.772
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, tập.2, tr.200
(3) Hội đồng Lý luận Trung ương, Vững bước trên con đường đã chọn, Nxb Chính trị Quốc gia, 2002, tr.197
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, tr.275)
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb
Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, tập.2, tr.217
Bài 2: Tự phê bình và phê bình - "vũ khí" sắc bén
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình (TPB&PB) được đưa vào Điều lệ Đảng từ Đại hội II của Đảng năm 1951.
Từ đó đến nay, TPB&PB trở thành quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Những người hoài nghi sức mạnh nội sinh của Đảng cho rằng, nguyên tắc này chẳng khác nào “vạch áo cho người xem lưng”. Nhưng thực tiễn đã chứng minh, nguyên tắc này là “vũ khí” sắc bén để sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm của đảng viên và tổ chức đảng...
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” (1).
Hiếm có đảng cầm quyền nào mà sinh hoạt TPB&PB lại trở thành công việc thường xuyên, trở thành nếp sinh hoạt chính trị thấm đẫm giá trị nhân văn như Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù, đến Đại hội II (1951) Đảng ta mới đưa TPB&PB vào Điều lệ Đảng, nhưng từ khi mới ra đời (3-2-1930) Đảng ta đã mang trong mình tinh thần “tự chỉ trích” rất nghiêm túc. Thực tiễn hơn 91 năm qua cho thấy, mỗi khi phát hiện có sai lầm, Đảng đều công khai thừa nhận và tìm ra biện pháp sửa chữa. Trong cuộc Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc (1953-1956), khi phát hiện sai lầm, Trung ương Đảng đã họp tự kiểm điểm suốt một tháng (từ ngày 25-8 đến 24-9-1956). Trung ương Đảng đã thẳng thắn thừa nhận: “Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và điều lệ của một đảng theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà nước dân chủ nhân dân”(2). Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác này đều tự phê bình một cách sâu sắc và tự nhận hình thức kỷ luật rất nghiêm khắc. Tổng Bí thư Trường Chinh xin từ chức. Các đồng chí Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt xin rút khỏi Bộ Chính trị. Sau khi hội nghị kết thúc, Đảng tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Nhà hát Lớn, công khai thừa nhận sai lầm trước nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết, mục đích của phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Ảnh tư liệu.
Sau hơn 10 năm đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng rơi vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, Đảng ta một lần nữa tiến hành đợt TPB&PB nghiêm túc và sâu sắc. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI của Đảng năm 1986 dũng cảm nhận thấy “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Đảng tự thấy mình mắc “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế-xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng”. Sau Đại hội VI, trên báo Nhân Dân xuất hiện chuyên mục “Những việc cần làm ngay” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với bút danh “N.V.L”, tiếp nối tinh thần của đại hội, thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém cần sửa ngay, tạo ra không khí sửa sai rất sôi nổi, thực chất trong toàn xã hội. Chính tinh thần ấy đã cổ vũ, động viên đất nước, nhân dân ta vượt qua khó khăn, thử thách, từng bước đưa công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng kiểm điểm công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao” (3). Đấu tranh với những hiện tượng vi phạm nguyên tắc TPB&PB trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, Trung ương Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện một cách ráo riết, quyết liệt, có hiệu quả. Đặc biệt, sau khi Hội nghị Trung ương 4, khóa XI ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; ngày 13-8-2012, Bộ Chính trị đã tổ chức Hội nghị toàn quốc để hướng dẫn việc tiến hành kiểm điểm TPB&PB theo tinh thần nghị quyết này. Ngày 4-10-2021 vừa qua, khai mạc Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: "Trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Tuy nhiên, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện; trong đó khẳng định tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Hội nghị Trung ương 4 lần này sẽ tiếp tục thảo luận, tạo sự thống nhất cao về các chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (4).
Thực trạng đó cho thấy, nguyên tắc TPB&PB vẫn rất cần được bảo vệ trong thực tiễn, để "vũ khí" sắc bén của Đảng phát huy tác dụng trong sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm, vốn là một vấn đề không thể tránh đối với một đảng cầm quyền. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ đảng viên vẫn còn mang tâm lý "đấu tranh, tránh đâu", "dễ mình, dễ ta", "im lặng là vàng", "trong nhà đóng cửa bảo nhau", không muốn "vạch áo cho người xem lưng", "rút dây động rừng"... Quy chế, quy trình TPB&PB trong Đảng cũng chưa thực sự hoàn thiện, chưa có cơ chế đủ mạnh bảo vệ người "dám phê bình", xử lý những người trung bình chủ nghĩa, "nể và né"... nên các biểu hiện vi phạm nguyên tắc TPB&PB vẫn còn rất nhiều.
Theo PGS, TS Nguyễn Văn Giang (nguyên Phó viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), nguyên tắc TPB&PB đang xảy ra các biến tướng cần đấu tranh loại bỏ sau đây:
Phê bình vờ: Chỉ nêu những khuyết điểm nhỏ nhặt, như “đồng chí đôi khi còn đi làm muộn”; “tác phong chưa thật nhanh nhẹn”, "văn hóa, văn nghệ còn trầm"... Đây là kiểu phê bình chiếu lệ, phê làm phép cho có, làm qua loa đại khái, phê theo kiểu “bắn súng lên trời”, “phê chẳng chết ai”, để mọi người thấy mình cũng tham gia phê bình.
Phê bình vống: Khuyết điểm có ít xuýt ra nhiều; việc bé xé ra to, để thỏa mãn sự bực tức của mình, để “cho bõ ghét”, “cho nó chết”...
Phê bình dứ: Đây là loại lợi dụng phê bình rất tinh vi. Người phê bình nêu ra một số khuyết điểm nhưng ngầm tỏ ra còn biết người được phê bình có khuyết điểm, sai phạm lớn hơn, anh liệu mà cư xử với tôi. Đây là cách răn đe, hăm dọa người được phê bình.
Phê bình nịnh: Phê bình nhưng để khen nhau và tâng bốc nhau: “Điểm yếu của đồng chí là quá ham mê công việc cơ quan, không quan tâm đến bản thân và gia đình”, “đồng chí không chú ý giữ gìn sức khỏe”... Đây là thói cơ hội, xu nịnh, vuốt ve nhau, cố tình phóng đại những cái tốt, cái hay về đồng chí, đồng nghiệp nhằm củng cố “cánh hẩu” của mình. Đó là loại phê bình không nghiêm túc.
Phê bình đập: Đây là loại phê bình chụp mũ, kết tội nhau, hạ bệ nhau. Để “đập” nhau, họ tích lũy khuyết điểm, biến quá trình phê bình thành cơ hội để cường điệu hóa khuyết điểm nhằm bôi nhọ, vu khống để hạ bệ đồng nghiệp hoặc dọn đường cho nhau, giành lợi thế chính trị; bao vây, cô lập, vô hiệu hóa những nhân tố tốt; lấy cớ tự phê bình để triệt hạ những người không ưa, “trả thù vặt” theo kiểu “gắp lửa bỏ tay người”... Nguy hiểm hơn, họ biến thủ đoạn này thành đòn lôi kéo, đánh hội đồng rất tinh vi. Đây được coi là thủ đoạn phi tính đảng bậc nhất của “đảng viên”, là thủ đoạn của người đạo đức giả.
Đảng ta đang triển khai các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội XIII, coi trọng tính chiến đấu trong TPB&PB, để “vũ khí” sắc bén này góp phần xứng đáng vào công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Từng cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường giáo dục cho đội ngũ đảng viên nhận thức sâu sắc về vai trò và giá trị của TPB&PB trong Đảng; không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng nội dung, phương thức tiến hành TPB&PB ở cấp mình. Từng đảng viên cần khắc phục tâm lý ngại va chạm, tích cực TPB&PB "như rửa mặt hằng ngày" trong sinh hoạt Đảng. Từng cán bộ, nhất là người đứng đầu, cần chủ động, tự giác nêu gương trong thực hành TPB&PB; có cơ chế, biện pháp khuyến khích, bảo vệ cấp dưới phê bình cấp trên; kiên quyết chống các biến tướng của TPB&PB...
Để sinh hoạt TPB&PB giữ vững giá trị là một nét đẹp của văn hóa Đảng, thực sự là quy luật phát triển của Đảng; chúng ta cần ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Mục đích phê bình cốt để... đoàn kết và thống nhất nội bộ" (5). Đoàn kết không chỉ là mục đích mà còn là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Đó cũng là nội dung của bài viết tiếp theo mà chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc.
--------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2011, t.5, tr.301.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2002, t.17, tr.539-540.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, t.2, tr179.
(4) Báo Quân đội nhân dân, ngày 5-10-2021
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2011, t.5, tr.272.
Bài 3: Đoàn kết - sức mạnh vô địch của Đảng
Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc và của Đảng ta. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh: Đoàn kết là yêu cầu chiến lược để đảng cộng sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đoàn kết là sức đề kháng để Đảng phòng ngừa các nguy cơ bè phái, cục bộ, “lợi ích nhóm”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”...
Ngay từ khi mới thành lập Đảng, những người cộng sản Việt Nam đã thống nhất từ bỏ mọi thành kiến và xung đột cũ, kết thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc. Tại Đại hội III của Đảng năm 1960, nhận thức rõ đoàn kết “là sinh mệnh của Đảng”, Đảng ta bổ sung vào Điều lệ Đảng nguyên tắc đoàn kết nhất trí và nhấn mạnh: “Đảng kiên quyết chống lại mọi hiện tượng chia rẽ, bè phái trong Đảng. Mỗi đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt... Tự phê bình và phê bình thành khẩn, thẳng thắn và đúng mức là một bảo đảm cho sự đoàn kết nhất trí đó”(1). Điều lệ Đảng hiện hành quy định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động... đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng”(2).
Đánh giá kết quả thực hiện nguyên tắc đoàn kết, Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới”(3). Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm”(4). Trước đó, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã cảnh báo: “Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty”(5).
Đoàn kết là sức mạnh vô địch của Đảng: Ảnh minh họa: TTXVN
Tình hình mất đoàn kết nội bộ trong một số tổ chức đảng có thể gây ra những nguy hại khôn lường. Hơn bao giờ hết, mỗi đảng viên phải nhận thức rõ “chia rẽ, bè phái phải coi là phạm tội lớn nhất đối với Đảng, đối với nhân dân”. Một số biểu hiện sau đây về mất đoàn kết trong nội bộ tổ chức đảng là điều rất đáng chú ý.
Mất đoàn kết do “lợi ích nhóm” giữa các cơ quan công quyền, địa phương. Do lợi ích cục bộ chi phối, có sự vận động tranh thủ, đấu đá, tranh giành giữa cơ quan này với cơ quan khác. Đặc biệt nguy hại nếu sự mất đoàn kết này xảy ra giữa các cơ quan làm chính sách. Mặc dù những biểu hiện chưa nhiều nhưng trên thực tế đã có những cơ quan làm chính sách theo kiểu “cuốc giật vào lòng”, tiến hành tuyên truyền, vận động, tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan, đơn vị, địa phương khác ủng hộ những quyết định, chương trình, dự án... nhằm thu lợi cục bộ cho cơ quan mình.
Hiện tượng “lợi ích nhóm” còn tạo ra sự “đoàn kết xuôi chiều” trong một số cấp ủy. Điều này dẫn đến tình trạng tham nhũng, tiêu cực tập thể. Một số cấp ủy thậm chí còn “quyết nghị” những vấn đề như chi “phần trăm hoa hồng”, “phí bôi trơn”, “quà tặng” trái pháp luật để mưu cầu lợi ích cục bộ cho cơ quan đó. Tình trạng “đoàn kết xuôi chiều” vì “lợi ích nhóm” này rất khó đấu tranh và là vấn đề đáng chú ý nhất trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Mất đoàn kết giữa người đứng đầu cấp ủy và người đứng đầu chính quyền địa phương. Đây là điều từng xảy ra ở nhiều địa phương và đến nay vẫn là điều cần được cảnh báo. Vấn đề “quyền anh, quyền tôi” luôn được đặt ra trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa hai người đứng đầu. Đã có thời điểm, không ít địa phương có biểu hiện mất đoàn kết ở mối quan hệ này. Hiện nay và lâu dài về sau, cơ chế lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền địa phương sẽ còn nảy sinh những vấn đề mới, khó hoàn thiện trong một sớm một chiều. Nếu người đứng đầu cấp ủy và người đứng đầu chính quyền địa phương sa vào chủ nghĩa cá nhân, chắc chắn sẽ dẫn đến mất đoàn kết. Đặc biệt, hiện nay Đảng ta đang thực hiện giải pháp luân chuyển cán bộ, nhiều bí thư cấp ủy không phải là người địa phương thì nguy cơ mất đoàn kết càng phải được quan tâm.
Mất đoàn kết do cục bộ địa phương, đặc biệt trong công tác cán bộ (CTCB). Tình cảm quê hương là một giá trị truyền thống đặc sắc của người Việt Nam. Nhưng nếu để tình cảm này chi phối CTCB, dễ dẫn đến mất đoàn kết giữa những người được hưởng lợi và những người không được hưởng lợi. Trong những năm gần đây, vấn đề kiểm soát quyền lực được Đảng ta đặc biệt quan tâm nhưng những tiêu cực trong CTCB chưa phải đã được khắc phục triệt để. Vấn đề mất đoàn kết do cục bộ địa phương trong nội bộ cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là một trong những biểu hiện rất đáng lo ngại hiện nay.
Mất đoàn kết do thu nhập và mức sống giữa các đảng viên quá chênh lệch. Đảng viên phải đi thuê nhà đương nhiên suy nghĩ khác xa đảng viên ở trong các biệt thự, lâu đài tráng lệ. Sự phân hóa với khoảng cách ngày càng xa về mức sống của đảng viên sẽ thúc đẩy sự khác biệt về tư tưởng, nhận thức, thậm chí dẫn đến mâu thuẫn, mất đoàn kết trong Đảng. “Đảng ta sau này sẽ là Đảng của ai?” là câu hỏi đầy trăn trở mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra. Rõ ràng, rất khó để có được sự đoàn kết, nhất trí cao giữa “kẻ ăn không hết” với “người lần không ra”.
Trên đây là một số biểu hiện dẫn đến tình trạng mất đoàn kết trong một số cấp ủy, tổ chức đảng. Nguyên nhân có nhiều, nhưng trước hết và chủ yếu là do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gây nên. Nhìn nhận như vậy để thấy rằng, sự nghiệp đấu tranh bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng gắn chặt với sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà cụ thể hơn là đấu tranh, bảo vệ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.
Để nguyên tắc đoàn kết trong Đảng phát huy vai trò, tác dụng, trước hết cần tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả 10 nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Thực sự coi trọng giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên. Sự giác ngộ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng là cơ sở nền tảng cho việc thống nhất ý chí, thống nhất hành động. Không ngừng hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn. Kiên định và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng cùng với không ngừng mở rộng dân chủ trong Đảng.
Giải pháp đột phá là tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, là hạt nhân đoàn kết của cấp ủy, tổ chức đảng cấp mình. Hoàn thiện thể chế về CTCB; xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung; thực sự tiên phong, gương mẫu. Tiếp tục đổi mới CTCB, bố trí đúng người đứng đầu cấp ủy và chính quyền địa phương; chăm lo xây dựng cấp ủy, thường vụ cấp ủy từ cấp cơ sở đến Trung ương.
Cấp ủy các cấp cần chú trọng xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế lãnh đạo. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp; kiên quyết xử lý dứt điểm hiện tượng mất đoàn kết trong các cấp ủy, tổ chức đảng. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách; giảm dần khoảng cách và sự bất bình đẳng về thu nhập, điều kiện làm việc của đảng viên. Đẩy mạnh công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ, gây mất đoàn kết trong Đảng của các thế lực thù địch, phản động.
------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2002, t.21, tr.782.
(2) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2016, tr.5.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, t.2, tr.221.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021,t.2, tr.225.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.22.
Bài 4 - Chữa “bệnh” xa dân
Gắn bó mật thiết với nhân dân là phẩm chất cốt lõi thể hiện bản chất, sức sống của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”(1).
Nhân dân là cội nguồn làm nên sức mạnh vô tận và vô địch của Đảng. Nắm được sức mạnh của lòng dân, có được sự ủng hộ của nhân dân là vũ khí tối ưu trên mọi trận tuyến chống các thế lực thù địch, phản động.
Trái lòng dân là mất tất cả
Có thể khẳng định, trải qua các thời kỳ phát triển của Đảng, việc xây dựng mối liên hệ, gắn bó với nhân dân luôn được Đảng coi trọng. Đảng thường xuyên khẳng định cần gắn bó mật thiết với nhân dân, coi đây là cội nguồn sức mạnh, nhân tố làm nên thắng lợi của Đảng, của sự nghiệp cách mạng. Đến Đại hội X (2006), trước yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, Đảng chính thức nâng vấn đề này lên thành nguyên tắc và ghi vào trong Điều lệ Đảng: "Đảng phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân". Đây thực sự là một bước ngoặt, đánh dấu nhận thức mới của Đảng đối với mối quan hệ Đảng với nhân dân trong tình hình mới.
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân có vai trò to lớn không chỉ đối với bản thân Đảng, mà còn có ý nghĩa, tác dụng to lớn đối với các tầng lớp nhân dân, đối với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân do Đảng lãnh đạo. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Gắn bó mật thiết với nhân dân trở thành quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân xuất phát từ yêu cầu của đảng cầm quyền: Đảng muốn giữ được vị trí cầm quyền phải giữ được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân. Quần chúng nhân dân là đối tượng lãnh đạo của Đảng. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân. Vì thế, mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân tạo nên sức mạnh của Đảng, duy trì và củng cố vững chắc địa vị cầm quyền của Đảng. Từ thực tiễn sinh động, từ phong trào quần chúng, Đảng hoạch định, xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách. Những sáng kiến đóng góp của quần chúng giúp Đảng đề ra được đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân. Khi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được ban hành, chính nhân dân là người thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách đó. Mục tiêu, đường lối của Đảng chỉ có thể trở thành thực tiễn trong đời sống của nhân dân khi Đảng huy động được mọi nguồn lực trong nhân dân, được nhân dân đồng tình và tự giác thực hiện. Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân góp phần trực tiếp khơi dậy nguồn nhân lực, tài lực, vật lực, trí lực dồi dào của nhân dân, nhân lên thành sức mạnh để hiện thực hóa lợi ích của nhân dân.
Quang cảnh phiên bế mạc Đại hội XIII của Đảng tại Trung tâm Hội nghị quốc gia.
Ảnh: nhandan.com.vn
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Trong 5 năm qua, các cấp ủy đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các tổ chức chính trị-xã hội tổ chức hơn 90.000 hội nghị đối thoại giữa cấp ủy, chính quyền với nhân dân; MTTQ, tổ chức chính trị-xã hội các cấp và nhân dân đã có hơn 32.000 ý kiến góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Một trong những bài học kinh nghiệm được Đảng ta rút ra từ những thành công của quá trình đổi mới, nhất là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. Đó chính là nguyên nhân quan trọng để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, thu được những thành tựu rất quan trọng, toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội. Nhiều lĩnh vực để lại dấu ấn nổi bật như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, chống tham nhũng, lãng phí...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
“Bệnh” xa dân còn nặng
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân ai cũng thấy đúng, thấy quan trọng, cần thiết, nhưng trong thực tế vận hành nguyên tắc thì còn tồn tại nhiều hạn chế, khuyết điểm. Nghị quyết Đại hội XIII xác định: “Công tác dân vận có nơi, có lúc còn hạn chế; một số cấp ủy, tổ chức đảng còn xem nhẹ công tác dân vận; việc nắm, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là ở những địa bàn phức tạp chưa kịp thời, sâu sát. Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của MTTQ, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả còn thấp, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”(2).
Không ít cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở chưa quan tâm, chú trọng phòng ngừa, phát hiện sớm, chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, chưa giải quyết triệt để những bức xúc chính đáng của nhân dân, vẫn để xảy ra những “điểm nóng” về chính trị-xã hội. Cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực vẫn ở tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” khiến người dân có cảm giác “quan ở xa, bản nha ở gần”. Các tổ chức chính trị-xã hội hoạt động còn nặng về hành chính, chưa thực sự thu hút, lôi cuốn quần chúng. Cán bộ làm công tác ở MTTQ các cấp còn bị xem nhẹ, chưa có cơ chế hoạt động hiệu quả, chưa có nhiều cán bộ giỏi đam mê làm công tác này. Tinh thần phục vụ nhân dân của không ít cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính chưa tốt; công tác cải cách hành chính còn chậm. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn nặng về hình thức. Cấp ủy, tổ chức đảng ở một số nơi chưa thực sự dựa vào dân để xây dựng Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên chưa bám sát đời sống một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, công nhân lao động ở các khu công nghiệp...
Một bộ phận cán bộ, đảng viên vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Trong xã hội đang hình thành một tầng lớp thượng lưu “đặc quyền, đặc lợi”, sống xa xỉ, hưởng lạc, xa cách nhân dân lao động, trong đó có cả đảng viên hoặc vợ con của những đảng viên là cán bộ cấp cao. Một số cấp ủy, tổ chức đảng ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết thiếu khoa học, thiếu dân chủ, không đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII cho rằng: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường(3).
Những giải pháp gần dân
Đại hội XIII của Đảng với quan điểm “kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng” đã xác định: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng” là một trong những nhiệm vụ, giải pháp đột phá trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo chúng tôi, triển khai nhiệm vụ, giải pháp này cần thực hiện một số nội dung trọng tâm sau đây:
Một là, cấp ủy các cấp tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.
Hai là, hoàn thiện thể chế “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”; trong đó cụ thể hóa các quy định về bí thư cấp ủy định kỳ tiếp xúc, đối thoại với quần chúng nhân dân; quy định về vai trò của quần chúng nhân dân trong giám sát, quản lý, đánh giá đội ngũ cán bộ; tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ba là, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Trong kiểm điểm, đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm, nhất định phải có phần kiểm điểm, đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của đảng viên.
Bốn là, cấp ủy các cấp, nhất là Trung ương Đảng tăng cường công tác nắm bắt, nắm chắc lòng dân với các chỉ số đo lường trung thực, chính xác. Có nắm chắc lòng dân thì mới có giải pháp, biện pháp kịp thời củng cố, nâng cao sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Chính điều đó giúp Đảng ta luôn xứng đáng là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, của nhân dân và của cả dân tộc. Nội dung này, chúng tôi xin được gửi đến bạn đọc trong bài viết tiếp theo.
--------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, 2011, t.10, tr.63
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2021, t.2, tr.205-206.
(3) Báo Quân đội nhân dân, ngày 5-10-2021
Bài 5 - Đảng “đúng vai, thuộc bài”
“Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” là một nguyên tắc hoạt động của Đảng, được Đại hội X của Đảng thông qua và đưa vào Điều lệ Đảng. Nguyên tắc này xác định địa vị pháp lý của Đảng cầm quyền và phương thức hoạt động của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta hiện nay; thể hiện sinh động cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"; đề phòng và khắc phục tình trạng "bao biện làm thay" hoặc buông lỏng lãnh đạo...
Ngày 18-9-2017, Ủy ban Kiểm tra Trung ương thông báo kết luận về những vi phạm, khuyết điểm của ông Nguyễn Xuân Anh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, trong đó có vi phạm "chủ trì xem xét, quyết định một số nhân sự có biểu hiện áp đặt; trực tiếp chỉ đạo nhiều công việc cụ thể của chính quyền". Câu chuyện này là một minh chứng, Đảng ta nghiêm khắc với mọi hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên là lãnh đạo cấp cao.
Ngay sau khi trở thành Đảng cầm quyền tháng 9-1945, Đảng ta đã coi trọng vấn đề tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Năm 1947, mặc dù công cuộc kháng chiến-kiến quốc vô cùng bận rộn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tâm sức viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", trong đó có phần chỉnh đốn những biểu hiện coi thường pháp luật của cán bộ, đảng viên. Tại Đại hội III của Đảng, Đảng đã thẳng thắn chỉ ra tình trạng: "Có những cấp ủy đảng bao biện làm thay, can thiệp vụn vặt vào công việc của cơ quan Nhà nước... Có những cấp ủy và cán bộ, đảng viên coi thường chính quyền Nhà nước, không nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cơ quan chính quyền cấp trên"(1).
Đến Đại hội IV, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đảng bắt buộc các tổ chức đảng và đảng viên tôn trọng quyền hạn, trách nhiệm và các chế độ của cơ quan Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định của Nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng”(2). Đặc biệt, Đảng khẳng định việc cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, quy định của Nhà nước là vi phạm kỷ luật của Đảng.
Tại Đại hội V, Đảng nhấn mạnh: "Vẫn còn một số tổ chức đảng bao biện công việc của cơ quan Nhà nước. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đó. Các cấp ủy đảng, các cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thi hành Hiến pháp và pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh tăng cường pháp chế XHCN. Nghiêm cấm các tổ chức đảng tùy tiện đề ra những quy định trái với pháp luật”(3). Đại hội cũng nhấn mạnh, phải tập trung "khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của Nhà nước còn khá nặng nề ở nhiều cấp, nhiều ngành"(4).
Đại hội X của Đảng đã thông qua Điều lệ Đảng, trong đó xác định: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(5) là một trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Nội dung cơ bản của nguyên tắc ấy là: Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng được chế định trong Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật thông qua trình tự lập hiến, lập pháp, qua đó mà thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Nội dung và phương thức hoạt động của Đảng phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật; tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng phải phù hợp với các thiết chế do Hiến pháp và pháp luật quy định. Đảng lãnh đạo bảo đảm các thiết chế của Nhà nước hoạt động theo đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức đảng và đảng viên gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, mọi vi phạm phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh, công khai trước pháp luật như mọi tổ chức và công dân khác.
Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo.
Ảnh minh họa: nhandan.com.vn
Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động vu cáo Đảng ta "độc tài, toàn trị", là "ông vua tập thể"; đồng thời cảnh tỉnh, ngăn ngừa những đảng viên có chức, có quyền sa vào "tham nhũng quyền lực". Dù rằng đây là vấn đề thuộc về "khuyết tật bẩm sinh của quyền lực" mà bất kỳ một đảng cầm quyền nào cũng phải tiến hành các biện pháp phòng, chống để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Thực hiện nguyên tắc “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” đã đem lại những thành tựu to lớn trong vận hành cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" ở nước ta. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, một bộ phận cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng chưa nhận thức rõ về nguyên tắc này. Một số tổ chức đảng vẫn ra những nghị quyết, chỉ thị trái pháp luật; một số cán bộ, đảng viên nhân danh tổ chức đảng tùy tiện gây áp lực làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Một số cấp ủy địa phương lạm dụng quyền lãnh đạo, can thiệp sâu vào hoạt động chính quyền, tư pháp. Một bộ phận đảng viên vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực kinh tế với tính chất, mức độ nghiêm trọng. Một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, bao che cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp, để vợ con, người thân trục lợi từ chức vụ, quyền hạn. Đặc biệt là những biểu hiện làm giàu bất chính, ăn chơi xa xỉ, mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè bê tha... bị quần chúng oán ghét, làm suy giảm niềm tin của người dân vào Đảng.
Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII vừa qua, Trung ương Đảng đã thống nhất cao về việc tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Cùng với đẩy mạnh thực hiện 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XII đã đề ra; Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm.
Có thể nói, thực hiện 2 nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung, nhấn mạnh là vấn đề quan trọng nhất trong thúc đẩy việc thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Cùng với vấn đề quan trọng nhất nói trên, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác như: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; chú trọng thực hiện nghiêm quy định của Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy các cấp, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cụ thể hóa chi tiết vai trò lãnh đạo và hoạt động của Đảng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chấp hành Điều lệ Đảng với chấp hành pháp luật của đảng viên. Phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp trong thực hiện nguyên tắc.
Trong sinh hoạt Đảng và tiếp xúc cử tri, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất nhiều lần nhấn mạnh: Mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải thấm nhuần quan điểm "đúng vai, thuộc bài". Điều đó có nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức phải hiểu rõ, nắm chắc và hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp và pháp luật cho phép. Thực tiễn lãnh đạo và cầm quyền của Đảng ta trong hơn 35 năm đổi mới cho thấy, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật không phải là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng mà là một yêu cầu khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vừa giúp xây dựng Đảng vững mạnh, thật sự xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
-------------------------------
(1): Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9-1960, t.2, tr.59.
(2): Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004, t.37, tr.954.
(3): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, t.1, tr.117.
(4): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, t.3, tr.74.
(5): Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thông qua ngày 25-4-2006, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006, tr.5.
Nguyễn Hồng Hải - Đào Thị Thạnh - Lê Duy Thành