Kỳ 4 Đảng viên mặc áo lính – Sứ giả hữu nghị Với vị trí chiến lược, mục tiêu xây dựng đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển, công tác đối ngoại biên giới được thúc đẩy mạnh mẽ với nhiều cách làm hiệu quả, sáng tạo. Nhiều đảng viên đã phát huy vai trò của mình, thực sự gương mẫu đi đầu trong việc vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai dân tộc, nhân dân hai tuyến biên giới, xứng đáng với tên gọi “sứ giả hữu nghị” mà nhân dân đã đặt cho. Đảng viên áo lính với “nhiệm vụ kép” Đã thành lệ, mỗi năm hai lần, hơn 80 cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam thuộc Đồn Biên phòng cửa khẩu Hữu Nghị, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Lạng Sơn và Đảng Cộng sản Trung Quốc thuộc Trạm kiểm soát biên phòng Hữu Nghị Quan (Tổng đội Công an biên phòng Quảng Tây, Trung Quốc) lại gặp gỡ nhau trong dịp sinh hoạt đảng đặc biệt với chủ đề “Lá cờ Đảng soi sáng biên cương” và “Trung - Việt hữu nghị tâm liền tâm”. Tin cậy, phấn chấn và đầy hy vọng là những gì chúng tôi cảm nhận được khi chứng kiến những đảng viên mặc áo lính của hai đất nước, hai lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh biên giới cửa khẩu cùng nhau hát vang bài “Quốc tế ca” hùng tráng. Người góp phần tạo nên mô hình đối ngoại nhiều ý nghĩa này là Thượng tá Bùi Xuân Tài, Phó Tham mưu trưởng BĐBP tỉnh Lạng Sơn, nguyên Đồn trưởng Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị. Là một sĩ quan biên phòng bản lĩnh, hiểu biết, không ngừng tư duy sáng tạo, Thượng tá Bùi Xuân Tài đã có nhiều đóng góp trong công tác bảo vệ biên giới của BĐBP tỉnh Lạng Sơn, như đấu tranh phòng chống tội phạm, vận động quần chúng và đặc biệt là quản lý cửa khẩu. Song, dấu ấn của người chiến sĩ mang quân hàm xanh này trong hoạt động đối ngoại hết sức đáng trân trọng. Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và Trạm kiểm soát Biên phòng Hữu Nghị Quan là một trong những cặp đơn vị đầu tiên tổ chức ký kết giao lưu kết nghĩa “Đồn - Trạm hữu nghị, biên giới bình yên” và cũng là đơn vị thí điểm tổ chức mô hình “Giao lưu chính trị” giữa lực lượng quản lý, bảo vệ cửa khẩu trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Căn cứ thực tế, Đồn trưởng Bùi Xuân Tài đã chỉ đạo đơn vị triển khai các hoạt động đối ngoại với phía bạn bằng nhiều hình thức sinh động, biểu hiện cho tình đoàn kết, hữu nghị, chia sẻ chân thành, như mở các lớp học “Cùng nói tiếng láng giềng, cùng hát bài ca hữu nghị”, tọa đàm song phương “Đọc và bình luận các trước tác cách mạng”, “Cùng nhau trao đổi kinh nghiệm xây dựng tổ chức đảng vững mạnh” và ký Biên bản ghi nhớ cùng nhau xây dựng “Cửa khẩu kiểu mẫu”… Có tận mắt chứng kiến tình cảm nồng ấm giữa những người đảng viên mặc áo lính của hai nước bên nhau thực hiện nhiệm vụ chung, tích cực cùng nhau học tập Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, nghiên cứu “Phương pháp công tác đảng ủy” của Chủ tịch Mao Trạch Đông và văn kiện “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới thấy hết được giá trị tư tưởng và tinh thần to lớn mà các hoạt động đối ngoại đem lại. Thượng tá Thạch Tương Quốc, Trạm trưởng Trạm kiểm soát biên phòng Hữu Nghị Quan rất tâm đắc khi nhắc đến người đồng chí bên kia biên giới: “Đồng chí Tài đối với chúng tôi hết sức gắn bó, chúng tôi đã cùng nhau hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, cùng nhau làm tốt công tác đối ngoại chính trị để làm tăng thêm ý nguyện và nhận thức chung của hợp tác hữu nghị, giúp thúc đẩy thực thi pháp luật nhanh chóng và hiệu quả”. Năm 2019, Đồn trưởng Bùi Xuân Tài được bổ nhiệm cương vị mới, song đồng chí vẫn nỗ lực tham mưu cho Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Lạng Sơn những biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới và đối ngoại hiệu quả. Nhờ vậy những năm gần đây, hàng trăm chuyên án buôn bán ma túy, buôn bán người và gian lận thương mại được hai đơn vị phối hợp triệt phá thành công. Đường biên, mốc giới được bảo vệ toàn vẹn, nhân dân yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất trên lãnh thổ của đất nước mình; việc giao thương, trao đổi nông sản, hàng hóa của nhân dân hai bên biên giới được tạo điều kiện thuận lợi nhất. Hoạt động cửa khẩu ngày một thông thoáng, hiện đại, văn minh, chính sách biên mậu chung khá linh hoạt và phù hợp với từng địa phương đã thúc đẩy hoạt động thương mại giữa hai nước tăng trưởng mạnh mẽ. Giống như Thượng tá Bùi Xuân Tài, Thượng tá Lê Công Khoa, Đội trưởng Đội K53, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kon Tum cũng là một “cây cầu hữu nghị” tại ngã ba biên giới Bờ Y, giữa ba nước Việt Nam - Lào - Căm-pu-chia. Đã 15 năm qua, mỗi khi mùa khô đến, đồng chí lại cùng đồng đội chia các hướng để tìm kiếm và quy tập hài cốt liệt sĩ đã hy sinh tại chiến trường Lào và Căm-pu-chia trong những năm chiến tranh ác liệt. Chờ đón các đồng chí bên kia biên giới cùng bước vào hành trình khi mùa khô đến chính là những cán bộ, chiến sĩ thuộc Đội công tác đặc biệt của ba tỉnh A-tô-pư, Chăm-pa-sắc, Sê Kông (Lào) và tỉnh Ra-ta-na-ki-ri (Căm-pu-chia). Những cái bắt tay thật chặt, những nụ cười ấm tình đồng chí khiến không gian giữa mùa khô như tươi mát hơn. Dù điều kiện địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế, tỉnh Ra-ta-na-ki-ri còn nghèo song không vì thế mà Đội K53 nhận được ít sự quan tâm, hỗ trợ. Thượng tá Khoa kể rằng, khi sang đất bạn, mọi đội viên đều xác định rõ vừa tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ, vừa góp phần vun đắp thêm tình đoàn kết giữa hai dân tộc nên đều rất nỗ lực. Bản thân anh là đội viên Đội K53 từ khi còn rất trẻ, nay giữ vai trò Đội trưởng, song chưa lúc nào quên “nhiệm vụ kép” của mình. Những lần hành quân tìm kiếm tại những khu vực hiểm trở, mỗi khi thời tiết không thuận lợi, Thượng tá Khoa lại chủ động phối hợp với lực lượng chức năng của bạn làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, giúp bà con hiểu chính sách của hai Đảng, hai Chính phủ về công tác tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ của bộ đội Việt Nam. Đồng thời, đồng chí và đồng đội luôn sẵn sàng “ba cùng” giúp đỡ nhân dân nước bạn chăm sóc sức khỏe, phát triển kinh tế, vượt qua thiên tai, dịch bệnh… Còn bạn tranh thủ giúp cán bộ ta học tiếng Lào, tìm hiểu phong tục tập quán của các dân tộc để dễ dàng hòa nhập, làm tốt nhiệm vụ được giao. 15 năm với hàng nghìn lần luồn rừng giữa nắng đốt chang chang, dìu nhau vượt dốc, qua đèo, ca nước nhường nhau, miếng lương khô chia nửa đã làm nên nghĩa tình giữa Đội K53 và những người đồng chí nước bạn. Do công việc nặng nhọc, lại sống hàng nửa năm trong rừng nên sốt rét, ghẻ lở trở thành bệnh thường mắc với hầu hết các thành viên trong Đội. Những xóm, bản có thông tin về nơi an nghỉ của bộ đội Việt Nam bao năm qua đã quá quen với sự xuất hiện của những cán bộ làm công tác tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ của hai tỉnh. Mùa khô là mùa mai rừng khoe sắc và hoa rumdul (tiếng Việt Nam gọi là chùm đuông) nở rộ trên đất bạn Căm-pu-chia. Với nhiệm vụ đặc thù, đã nhiều năm các cán bộ Đội K53 ăn Tết trên đất bạn cùng đồng đội, đồng chí. Năm 2019 đặc biệt hơn, bởi có đoàn công tác của chúng tôi tham gia. Không khí rộn ràng, phấn khởi lan tỏa tới các cán bộ, chiến sĩ bảo vệ của nước bạn. Họ cùng nhau trang trí phòng họp, cắt, dán hoa, tập văn nghệ, chơi trò chơi dân gian, các đồng đội nước bạn đã cảm nhận được cái Tết Việt Nam đầy ắp tình cảm, ấm áp tình đồng đội, hữu nghị giữa 2 nước. Sáng sớm mùng 1 Tết, đồng chí Khoa và một số anh em vào bản để mừng tuổi các cháu nhỏ Căm-pu-chia, quà là những bộ quần áo mới. Từ ngày các anh ở đây, bà con biết thêm nhiều phong tục Tết Việt nên rất hồ hởi tham gia. Các anh được người dân Căm-pu-chia yêu quý tặng những vòng hoa nhài thơm nức và dùng son môi vẽ lên mặt những lời cầu chúc bình an, may mắn… Không còn khoảng cách, rào cản ngôn ngữ bị xóa bỏ, họ cùng nhau say sưa múa hát, trao cho nhau nụ cười và niềm tin yêu… Suốt nghìn ngày đêm đã qua, nghị lực, ý chí, sự kiên tâm của Thượng tá Lê Công Khoa và Đội K53 khiến chính quyền và nhân dân nước bạn nể phục. Mỗi hành trình đã qua và những ngày đang tới của các anh không chỉ đơn thuần là tìm kiếm hài cốt đồng đội đã ngã xuống mà còn khơi gợi tình đoàn kết chiến đấu giữa quân - dân ba nước, nhân lên tinh thần đoàn kết giữa ba lãnh thổ, ba dân tộc. Vì no ấm, bình yên nơi biên cương Chúng tôi đến huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng giữa lúc Khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng đang bắt đầu đi vào hoạt động ổn định với gần 40 dự án trị giá trên 10.000 tỷ đồng. Một trung tâm xuất nhập khẩu quốc tế, một đô thị vùng biên giàu bản sắc, điểm đến của du lịch quốc gia và quốc tế, trung tâm giao thông, hậu cần, vận tải vùng đã hiện lên khiến ít ai ngờ rằng, cách đây chưa lâu đây là vùng đất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đồng chí Bí thư Huyện ủy Nông Thị Hà vui vẻ giới thiệu với chúng tôi người đồng nhiệm đắc lực của mình - đồng chí Lương Đức Tố, Phó Chủ tịch UBND huyện giữa lúc anh vừa trở về sau cuộc hội đàm với chính quyền huyện Long Châu, thành phố Sùng Tả, Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc. Khác với vẻ bề ngoài mộc mạc, chân chất, người “kiến trúc sư trưởng” của các hoạt động hợp tác kinh tế như Hội chợ Triển lãm thương mại quốc tế Việt - Trung với chủ đề “Hợp tác - Hữu nghị cùng phát triển”, hay Hội đàm “Hợp tác phát triển thương mại biên giới”… nói chuyện đầy lịch lãm với sự hiểu biết sâu sắc về kinh tế biên mậu. Đồng chí mong muốn khai mở thêm nhiều cơ hội mới để các doanh nghiệp trong và ngoài nước giao lưu, xúc tiến thương mại, quảng bá tiềm năng phát triển các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của huyện Quảng Hòa và huyện Long Châu, góp phần thúc đẩy thêm mối quan hệ thân tình giữa nhân dân hai nước từng có thời gian xa cách bởi chiến tranh. Đồng chí Lương Đức Tố cho biết, để đẩy mạnh các hoạt động biên mậu, đồng chí đã cùng với tập thể lãnh đạo huyện chủ động gặp gỡ với một số doanh nghiệp Trung Quốc, giới thiệu các quy hoạch du lịch, vùng trồng các cây thế mạnh của địa phương và làm trung gian kết nối các doanh nghiệp hai bên ký kết thỏa thuận hợp tác, tập trung vào xuất khẩu nông sản, thủy sản đông lạnh qua cửa khẩu Tà Lùng. Đồng thời, xây dựng kế hoạch hai bên hợp tác thí điểm triển khai dự án trồng chuối, mía xuất khẩu, tạo sinh kế ổn định, giá trị kinh tế cao cho nhân dân trong huyện. Đây cũng là địa phương cấp huyện duy nhất trên toàn tuyến biên giới của Việt Nam tổ chức kết nghĩa với đơn vị hành chính tương đương của nước bạn. Việc thiết lập quan hệ hữu nghị này hết sức hiệu quả trong công tác đối ngoại chính quyền và ngoại giao nhân dân giữa hai huyện, góp phần tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng biên phát triển trên nhiều phương diện, xây dựng Quảng Hòa trở thành một trong những cửa ngõ giao lưu kinh tế - đối ngoại giữa hai nước. Bên cạnh giao lưu kinh tế đạt được những kết quả đáng ghi nhận, đồng chí Lương Đức Tố lại tiếp tục trao đổi với chính quyền phía bạn để đồng thuận tổ chức thêm các hoạt động giao lưu văn hóa - xã hội định kỳ khác như “Hội thi hát dân ca biên giới”, tổ chức cho thanh niên hai huyện tham quan “Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh” tại huyện Long Châu, viếng Nghĩa trang liệt sĩ Việt - Trung tại trấn Thủy Khẩu... Quảng Hòa đang khởi sắc từng ngày với những thành tựu mới nhờ những đảng viên tâm huyết như đồng chí Lương Đức Tố. Hình ảnh khắc sâu, ghi dấu trong chúng tôi là những gương mặt thanh xuân, tươi vui của gần 200 đoàn viên, thanh niên hai huyện Quảng Hòa - Long Châu cùng tiến hành thả cá trên sông Bắc Vọng, dưới chân cột mốc 943 nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, nhân dân và thế hệ trẻ hai huyện tích cực bảo vệ nguồn nước, môi trường sinh thái, cùng vun đắp, tiếp tục phát huy tình hữu nghị truyền thống. Dòng sông phân chia biên giới giữa hai quốc gia, hai dân tộc, nhưng tình nghĩa giữa con người thì mãi không biên giới. Nếu biên giới Việt - Trung đã thắm tình đoàn kết thì nơi biên thùy điệp trùng rừng núi của huyện Căm Cớt, tỉnh Bô-ly-khăm-xay (nước CHDCND Lào), tình nghĩa Lào - Việt dường như sâu nặng hơn, ấm nồng hơn khi có dấu chân của người lính biên phòng Việt Nam mang thuốc đến chữa bệnh cho dân, mang cây lúa, cây gừng thay thế cây anh túc… Suốt 13 năm nay, bác sĩ Nguyễn Việt Đức, Trạm trưởng Trạm Y tế quân - dân y kết hợp Thoọng Pẹ đã trở thành điểm tựa của nhân dân các dân tộc Lào thuộc 13 bản nơi đây. Là bác sĩ quân y giàu kinh nghiệm nên ngay sau khi Trạm Y tế quân - dân y kết hợp Thoọng Pẹ được xây dựng chưa lâu, bác sĩ Đức được giao nhiệm vụ sang phụ trách trạm và triển khai công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân biên giới nước bạn. Bước chân bác sĩ đã in dấu ở rất nhiều căn nhà để khám, chữa bệnh và vận động nhân dân thay đổi hủ tục, áp dụng cách làm ăn mới. Nhân dân 9 bản biên giới thuộc huyện Căm Cớt đã tin tưởng tìm đến người thầy thuốc Việt Nam mỗi khi đau ốm. Bác sĩ Đức cho biết, các loại bệnh thường gặp ở đây chủ yếu là bệnh đường ruột, sốt rét và bệnh phụ khoa do bà con sinh hoạt còn tùy tiện, ăn uống chưa vệ sinh… Hơn 10 năm bám dân, chăm lo cho dân từng viên thuốc khi mắc những bệnh thông thường cho đến những bệnh nặng hơn như sốt rét, đau dạ dày, gãy tay, chấn thương..., lưng vốn tiếng Lào, tiếng Mông, tiếng Chứt, tiếng Thái đen, Thái đỏ… của đồng chí cũng ngày một giàu lên, đủ để trò chuyện và khám, chữa bệnh cho các bệnh nhân. Điều thú vị là ở Trạm quân - dân y đặc biệt này, bệnh nhân không cần quan tâm đến giới hạn địa chính, không lo bị phân tuyến, có thể đến trạm xá bất cứ lúc nào mà không cần có bảo hiểm y tế hay giấy giới thiệu, nhất là khi khám bệnh lại càng không phải lo đến chuyện tiền nong. Người bệnh sau khi khám không dùng đơn thuốc hướng dẫn như thông thường mà bác sĩ Đức cùng đồng nghiệp cẩn thận chia các loại thuốc ra từng liều theo ngày rồi cho vào từng túi nilon nhỏ. Đến hẹn, nếu không thấy bệnh nhân đến tái khám, các anh thay nhau tìm đến tận nhà bệnh nhân để nhắc lịch, kiểm tra. Ở nơi khác, người bệnh phải tìm đến bác sĩ thì ở đây bà con chỉ quen nói: “Con tao nó ốm thì không cúng ma nữa, tao đem đến cho “thàn mỏ Việt Nam” (bác sĩ) chữa thôi”. Quãng thời gian sống trong tình hữu nghị, đoàn kết Việt - Lào anh em, cống hiến cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân nước bạn đủ để chúng ta thấy người thầy thuốc này đã đặt toàn bộ tâm huyết, lương tâm nghề nghiệp của mình ở đây. Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng sự ủng hộ của cán bộ và nhân dân trong bản, trong vùng đã làm lòng người thêm ấm áp, yêu thương, gắn bó. Các anh được bà con nơi đây coi như “người con của bản” - một danh dự mà người Mông thường không bao giờ dành cho người ngoại tộc, trừ những người có công với dân tộc mình. Ai nấy đều bảo: “Những cái gì bản ta làm được thì mang biếu cho “thàn mỏ Việt Nam” ăn. Bản ta có thể đói nhưng không thể để “thàn mỏ Việt Nam” đói. “Thàn mỏ Việt Nam” đừng bỏ dân ta mà về, tội nghiệp!”. Thế mới biết, khi tâm tình được trao gửi chân thành, khi sự vất vả, tận tụy đầy trách nhiệm của bác sĩ đã làm thay đổi cuộc sống của biết bao bản làng biên giới thì cũng là lúc các anh đã thắp sáng lên y đức và tấm lòng nhân ái của người Việt Nam nơi biên cương xa xôi. |