Nghị quyết Đại hội XII của Đảng bao gồm hệ thống các quan điểm, tư tưởng, giải pháp, phương châm chỉ đạo xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có nhiều nội dung mới, quan trọng, thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta. Tạp chí Điện tử Quốc phòng toàn dân xin giới thiệu loạt bài đề cập về vấn đề trên của đồng tác giả Mạnh Hà - Mạnh Dũng - Quang Chuyên, nhằm góp phần quán triệt sâu Nghị quyết Đại hội XII của Đảng theo Chỉ thị số 01-CT/TW, ngày 22-3-2016 của Bộ Chính trị.
I
Chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Trong lịch sử dân tộc, các triều đại phong kiến Đại Việt luôn coi trọng việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xabằng các hoạt động bang giao, giữ hòa khí với các nước láng giềng, bảo vệ hòa bình, tránh nạn binh đao; đồng thời, chăm lo xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, thực hiện kế sách khoan thư sức dân, xây dựng “thế trận lòng dân”, “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”. Trong trường hợp không thể ngăn ngừa được chiến tranh bằng biện pháp hòa bình thì bất đắc dĩ phải chủ động thực hiện phương châm “tiên phát chế nhân”, nhằm triệt phá cơ sở chuẩn bị chiến tranh xâm lược của đối phương để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Như vậy, có thể thấy quan điểm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” của Đảng ta là sự kế thừa tư tưởng giữ nước mang tính truyền thống của dân tộc trong điều kiện mới. Xét về nội hàm của quan điểm thì không mới, nhưng điều kiện thực hiện (đặc điểm, tính chất, phương châm,...) thì rõ ràng có khác so với trước đây. Nhận thức của Đảng ta về phương thức, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển, ngày càng đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn. Nội hàm bảo vệ Tổ quốc ngày nay - trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu, rộng và sự phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực - đương nhiên cũng rộng hơn, có nhiều mặt thuận lợi và cả những khó khăn, phức tạp. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” xác định nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định nội hàm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trong đó, nhấn mạnh nội dung cốt lõi là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Điều đó thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với đặc điểm nổi lên là: tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở Biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, v.v. Trong bối cảnh đó, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục thấu suốt quan điểm, tư duy mới của Đảng, tăng cường đoàn kết, thống nhất tư tưởng và hành động, tiến hành đồng bộ các giải pháp ngay từ thời bình, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa vừa là quan điểm, vừa là phương châm chỉ đạo đúng đắn của Đảng, cần được quán triệt sâu, thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế sâu rộng. Xét ở góc độ nhất định, quan điểm này thể hiện yếu tố thời gian và không gian bảo vệ Tổ quốc. Nhưng xét một cách toàn diện thì nó còn hàm chứa tổng thể các giải pháp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa;trong đó, giải pháp về quốc phòng, an ninh là trọng yếu và đối ngoại giữ vai trò ngày càng quan trọng. Bài viết chỉ đề cập các giải pháp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, và cũng chỉ tập trung vào những nội dung cơ bản nhất. Đó là (1) Nắm và dự báo chính xác tình hình; (2) Tuyên truyền, giáo dục quốc phòng và an ninh, bảo vệ Tổ quốc, nâng cao nhận thức về đối tác, đối tượng; (3) Tăng cường xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng, an ninh; (4) Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc.
Nắm, dự báo chính xác tình hình quốc tế, trong nước, nhất là những động thái mới về quốc phòng, an ninh và xu hướng phát triển của nó tác động đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, cấp thiết. Bởi, có nắm chắc, dự báo chính xác tình hình thì cơ quan chiến lược mới tham mưu cho Đảng, Nhà nước chủ động trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, cơ chế về quốc phòng, an ninh và có đối sách xử lý đúng, hiệu quả các tình huống xảy ra, bảo đảm đất nước không bị động, bất ngờ về chiến lược. Tất nhiên, việc nắm và dự báo chiến lược hiện nay có không ít khó khăn, phức tạp. Điều đó, càng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp, các lực lượng, nhất là giữa Quân đội với Công an và đối ngoại để nắm, dự báo chính xác tình hình; từ đó, tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước kịp thời, hiệu quả. Theo đó, đối với Quân đội, nhất là các cơ quan chức năng cấp chiến lược phải triển khai đồng bộ các biện pháp, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch cả bên trong và bên ngoài; dự báo đúng các nguy cơ, thách thức, những tình huống phức tạp có thể xảy ra, đặc biệt là trên vùng biển, đảo, biên giới và địa bàn nhạy cảm, phức tạp về quốc phòng, an ninh; từ đó chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời, hiệu quả các tình huống.
Để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, phải chủ động thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; nâng cao nhận thức về đối tác, đối tượng. Trên cơ sở đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ về trách nhiệm và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục cần gắn với định hướng tư tưởng, nhất là trước những sự kiện, những vấn đề nhạy cảm, phức tạp để nhân dân hiểu đúng bản chất, đồng thuận với quan điểm, chủ trương, đối sách của Đảng, Nhà nước; đồng thời, không để cho các thế lực thù địch lợi dụng sơ hở kích động, chống phá. Trong tình hình phức tạp hiện nay, cần nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về đối tác, đối tượng theo đúng quan điểm của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI). Đó là “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng”. Mặt khác, cần có cách nhìn biện chứng, sự chuyển hóa giữa đối tác, đối tượng. Phải thấy “trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Thực hiện tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, quán triệt về đối tác, đối tượng có ý nghĩa quan trọng và là phương thức bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa thiết thực nhất. Muốn thế, cần phát huy sức mạnh tổng hợp với sự vào cuộc của các lực lượng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương theo cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất.
Cùng với đó, phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng, an ninh, không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc mà cốt yếu là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường tiềm lực quốc phòng đủ mạnh ngay trong thời bình để chủ động trong mọi tình huống. Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường quốc phòng là: thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ. Điều đó được “thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình”1. Mục tiêu tăng cường tiềm lực quốc phòng trước hết nhằm ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô của địch. Để đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đó, chúng ta phải thường xuyên coi trọng xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh, thế trận quốc phòng vững chắc ngay từ khi “nước chưa nguy”, tức là ngay trong thời bình. Về lực lượng, phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức làm nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Về thế trận, phải xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên phạm vi cả nước và từng địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược, trọng điểm. Trong đó, trọng tâm là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh theo phương châm: làng giữ làng, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tạo cơ sở nền tảng cho thế trận quốc phòng toàn dân trong thời bình, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh. Đặc biệt, hiện nay các thế lực thù địch đang điên cuồng chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với những thủ đoạn hết sức thâm độc, nguy hiểm. Do đó, chúng ta phải chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của chúng. Trong đó, bao hàm cả việc chuẩn bị các phương án, kế hoạch phòng chống bạo loạn, gây rối, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, trung tâm kinh tế - chính trị của đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, công tác đối ngoại có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy, trong những điều kiện nhất định, thực hiện tốt công tác đối ngoại có thể tháo gỡ kịp thời “ngòi nổ” chiến tranh, ngăn ngừa xung đột, chiến tranh từ sớm, từ xa. Vì thế, trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, chúng ta cần tiếp tục tăng cường công tác đối ngoại, mở rộng quan hệ, hợp tác đa phương và song phương với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước lớn. Trong đó, cần thúc đẩy đối ngoại quốc phòng, an ninh, một mặt nhằm tăng cường nguồn lực quốc phòng, an ninh, chia sẻ kinh nghiệm và tăng sự tin cậy, hiểu biết với quân đội của các nước đối tác; mặt khác, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong hoạt động đối ngoại cần phải giữ vững nguyên tắc chiến lược, khôn khéo và linh hoạt về sách lược, nhận thức đúng về đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các nước trong khối ASEAN và các nước lớn. Thông qua hoạt động đối ngoại còn nhằm chủ động nắm chắc tình hình, các động thái liên quan đến quốc phòng, an ninh của đất nước để dự báo, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về đối sách và biện pháp xử lý các tình huống, các vấn đề nhạy cảm, phức tạp một cách phù hợp, hiệu quả. Thực tiễn khẳng định công tác đối ngoại, hoạt động ngoại giao có vai trò ngày càng lớn, trở thành “mặt trận” không thể thiếu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là trong đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây cũng là phương thức bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa thiết thực nhất.
MẠNH HÀ - MẠNH DŨNG - QUANG CHUYÊN
_____________
1 - Quốc phòng Việt Nam, Nxb Thế giới, H. 2009, tr.18, 19.
II
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ 2016 – 2020. Trong đó, nhiệm vụ thứ tư là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;...”. Đây là quan điểm cơ bản, thể hiện sự phát triển tư duy, nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quan điểm đó làm rõ hơn, sâu sắc hơn về chủ trương, biện pháp, phương châm chỉ đạo cũng như yêu cầu đối với nhiệm vụ chiến lược quan trọng này. Đặc biệt, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực, nhất là những diễn biến phức tạp mới rất khó lường ở Biển Đông và sự chống phá quyết liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta thì việc quán triệt, thấu suốt, nắm vững quan điểm trên của Đảng lại càng quan trọng, để trong quá trình thực hiện đảm bảo đúng định hướng, đạt được mục tiêu, yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc đã xác định.
1- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất. Độc lập là lợi ích tối cao, bất khả xâm phạm của một dân tộc, một quốc gia. Khi bị mất nước, mất độc lập dân tộc thì phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo đảm cho quốc gia không bị thống trị hoặc lệ thuộc bởi một quốc gia khác. Khi đã có độc lập, chủ quyền, thống nhất dân tộc thì phải kiên quyết giữ vững quyền thiêng liêng đó bằng mọi cách, với tất cả sức mạnh của dân tộc. Đó cũng là lẽ tự nhiên và trở thành quy luật đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nước ta có vị trí địa chiến lược trong khu vực, nên trong lịch sử thường xuyên bị các thế lực ngoại bang nhòm ngó, thôn tính xâm lược với các mục đích khác nhau. Vì thế, lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, dựng nước gắn liền với giữ nước và nó đã trở thành quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ta. Những chiến công oanh liệt của cha ông ta trong lịch sử cũng như cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ trong thời đại Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời về sự kết hợp của ý chí kiên quyết với kiên trì đấu tranh đến cùng để giành thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Những bản hùng văn bất hủ: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” của Lý Thường Kiệt, hoặc “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”1 của Hồ Chí Minh thể hiện ý chí kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng “một mất, một còn” trước kẻ thù xâm lược hung bạo, cùng với tính kiên trì, kiên nhẫn, không nóng vội đáng khâm phục của dân tộc Việt Nam. Nó được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đã kiên quyết nhưng tại sao còn phải kiên trì đấu tranh? Bởi lẽ, dân tộc ta thường phải đương đầu với kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn hẳn ta nên ta khó có thể giành thắng lợi nếu thiếu đi nhân tố kiên quyết, kiên trì. Thực tiễn lịch sử cho thấy, có những cuộc chiến tranh diễn ra trong thời gian ngắn hoặc tương đối ngắn, nhưng cũng có cuộc chiến tranh kéo dài hoặc tương đối dài. Vì thế, phải luôn nêu cao tinh thần kiên quyết đấu tranh, đó là điều kiện tiên quyết, điều kiện cần nhưng chưa đủ, mà còn phải kiên trì đấu tranh mới giành được thắng lợi cuối cùng. Cuộc kháng chiến chống quân Minh của Nhà Lê kéo dài 10 năm, hoặc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kéo dài 09 năm và cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài 21 năm liên tục,... đã chứng minh cho điều đó. Như vậy, cùng với kiên quyết, nhất thiết phải kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất của Tổ quốc. Đây là quan điểm có giá trị lý luận, được thực tiễn kiểm nghiệm và có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Thấu suốt và thực hiện quan điểm này, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của cả nước làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp đó đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm đầy hy sinh gian khổ, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất Tổ quốc.
Nội hàm quan điểm của Đảng ta về kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc rất rộng, nhưng nội dung cốt lõi là: xây dựng ý chí quyết tâm sắt đá cùng với kiên trì, bền bỉ đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta để bảo vệ Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Ý chí đó còn thể hiện ở tinh thần đoàn kết, thống nhất cao của toàn dân quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì vậy, trong tình hình phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết chúng ta càng phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn. Trong mối quan hệ biện chứng đó, độc lập dân tộc là mục tiêu, tiền đề và là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội, không có độc lập dân tộc thì không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội; còn xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhằm tăng cường nguồn lực vật chất kỹ thuật ngày càng dồi dào hơn, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc để giữ vững độc lập dân tộc. Thực tế cũng chứng minh chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và bảo đảm dân tộc thực sự có độc lập, đưa nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ đất nước, làm chủ chính bản thân mình.
Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, cách mạng Việt Nam đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức; trong đó, thách thức gay gắt nhất, nguy hiểm nhất đe dọa độc lập, chủ quyền, thống nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng Chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Do đó, chúng ta phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động, nhất là thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân của chúng để bảo vệ nền tảng tư tưởng và sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Đây là “cuộc chiến tranh không khói súng”, nhưng đầy cam go, quyết liệt, diễn ra thường xuyên trong điều kiện đất nước thời bình và không thể kết thúc “một sớm, một chiều”. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác, kiên quyết và chủ động đấu tranh, đồng thời phải kiên trì thực hiện các biện pháp phòng, chống, không để xảy ra bạo loạn, khủng bố hoặc hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước, có đối sách phù hợp trong từng thời điểm, với từng đối tượng để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2 - Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là một thể thống nhất. Tuy nhiên, cũng có điểm khác nhất định về nội hàm, tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là nói đến không gian toàn bộ lãnh thổ, bao gồm: vùng trời, vùng biển, thềm lục địa của Tổ quốc. Trước sự phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, nhất là tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ ở Biển Đông, Đảng ta đã khẳng định phải kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là nguyên tắc chiến lược, là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đồng thời là lợi ích cao nhất của đất nước cả trong hiện tại và tương lai. Phương thức bảo vệ là: kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn có hiệu quả từ sớm, từ xa các nguy cơ dẫn đến xung đột. Trong đó, bao hàm cả việc đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tình hình phức tạp ở Biển Đông để kích động, phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, mà điển hình là vụ Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (năm 2014). Cần thấy rằng, tình hình tranh chấp ở Biển Đông rất phức tạp, không thể giải quyết trong thời gian ngắn mà phải lâu dài. Do đó, không thể nóng vội, phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Kiên trì đấu tranh là phương châm chỉ đạo, hoàn toàn không mâu thuẫn với ý chí kiến quyết, càng không đồng nghĩa với nhân nhượng, thỏa hiệp. Thực hiện tốt điều đó sẽ thiết thực bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước, đồng thời góp phần đảm bảo ổn định ở khu vực và thế giới.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của đất nước. Đó là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, của thế trận chiến tranh nhân dân; khi xảy ra chiến tranh thì “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Vì vậy, phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng và an ninh. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc, làm cơ sở xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh. Thực hiện tốt quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân: cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số lực lượng; bảo đảm cho lực lượng vũ trang có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, đủ sức làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, làm cho nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức đúng quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng; thấy rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Qua đó, giáo dục, bồi đắp tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
MẠNH HÀ - MẠNH DŨNG - QUANG CHUYÊN
__________________
1 - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập hồi ký, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 130.
III
Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc - quan điểm nhất quán của Đảng ta
Tăng cường xây dựng “thế trận lòng dân” nhằm phát huy vai trò to lớn của nhân dân - nguồn gốc sức mạnh chủ yếu của cách mạng - là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quan điểm đó, không chỉ thể hiện tính cách mạng, khoa học của lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà còn bắt nguồn từ truyền thống, đạo lý nhân văn trong chiều sâu lịch sử dân tộc.
Thực tiễn lịch sử đã khẳng định: “dân là gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc” và điều đó trở thành quan điểm, tư tưởng nhất quán, xuyên suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của nhiều triều đại nhà nước phong kiến Đại Việt. Đề cập đến vai trò của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Như vậy, có thể thấy, yếu tố nhân dân quan trọng biết nhường nào. Vận nước và chế độ thịnh hay suy, còn hay mất đều do nhân dân quyết định. Vì thế, “thế trận lòng dân”, “chúng chí thành thành” là thành trì vững chắc nhất đối với mọi quốc gia - dân tộc. Đối với dân tộc ta nó không chỉ là quan điểm, kế sách giữ nước mang tính truyền thống mà còn là bài học kinh nghiệm quý, được đúc rút từ thực tiễn lịch sử dân tộc. “Thế trận lòng dân” là một trong những nhân tố chính tạo sức mạnh tổng hợp của cả nước, từ nhân dân và trong nhân dân để đánh bại mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và chế độ chính trị. Nắm vững và kế thừa quan điểm, bài học “lấy dân làm gốc”, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương phát huy sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của cả nước để giành thắng lợi, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta không ngừng phát triển, đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới đất nước 30 năm qua.
Tuy vậy, việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong hoàn cảnh lịch sử mới, nhất là trước những thử thách, phức tạp mới đặt ra yêu cầu mới trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng thế trận lòng dân, làm nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”1. Đây là một trong những quan điểm cơ bản, xuyên suốt thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân” trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu, rộng. Quan điểm đó cũng thể hiện sự sắc sảo, nhạy bén của Đảng trong đánh giá, dự báo tình hình, xác định mục tiêu, nội dung, phương châm cũng như nhấn mạnh sự tác động nhiều chiều (cả tích cực và tiêu cực) của hoàn cảnh mới đối với xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, mục tiêu xây dựng “thế trận lòng dân” phải nhằm tạo ra nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc để tăng cường nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, mà mấu chốt là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nội dung xây dựng phải bao gồm: tăng cường nhận thức, ý chí, niềm tin, tinh thần yêu nước, sự đồng thuận của nhân dân; sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong việc quy tụ, tập hợp nhân dân. Đó còn là việc xây dựng, bồi đắp tình cảm, trách nhiệm của quần chúng nhân dân; khai thác, phát huy “sức dân” phục vụ sự nghiệp cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phương châm xây dựng “thế trận lòng dân” là thường xuyên, toàn diện, bảo đảm “ở đâu có dân là ở đó có công tác vận động quần chúng, có “thế trận lòng dân” vững chắc”. Trong đó, cần tập trung xây dựng “thế trận lòng dân” ngay từ cơ sở và ở địa bàn trọng yếu về quốc phòng - an ninh, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo có nhiều khó khăn. Để quán triệt và thực hiện tốt quan điểm này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục thấu suốt bài học “lấy dân làm gốc”, phát huy cao nhất vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo của nhân dân.
Trước hết, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân cần xác định đó là vấn đề quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa thiết thực cả trước mắt và lâu dài. Đồng thời, qua đó thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; quan điểm vì con người, lấy con người là trung tâm của Đảng; và đó cũng là thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”2. Việc chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân còn nhằm tạo cơ sở, nền tảng để tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần của đất nước trong thời kỳ mới. Có thể thấy, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng những chủ trương, chính sách, giải pháp đồng bộ, phù hợp với khả năng, điều kiện của đất nước, nhằm bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo, hướng tới giảm nghèo bền vững, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, thu hẹp dần khoảng cách giàu nghèo, thu nhập, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện cũng còn nhiều hạn chế, bất cập; chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Ở nhiều nơi, trong khi đời sống nhân dân còn khó khăn, nhiều nhu cầu thiết yếu của quần chúng chưa được bảo đảm thì một số cán bộ có chức có quyền chỉ lo vun vén cá nhân, xoay sở làm giàu, vô cảm trước khó khăn của nhân dân; tệ tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn hiệu quả, gây bức xúc trong xã hội. Vì thế, nếu không hoặc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân chưa đúng mức, kém hiệu quả, thì sẽ hết sức nguy hại và cho dù có phương cách gì cũng không thể tạo đồng thuận xã hội để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Xuất phát từ vấn đề trên, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách chăm lo đời sống cho nhân dân, nhất là tạo việc làm, bảo đảm tiền lương, thu nhập cải thiện đời sống. Trong đó, cần chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo hướng: mở rộng đối tượng, nhất là các đối tượng chính sách và người có thu nhập thấp. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân là mục tiêu của cách mạng, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Quân đội nhân dân, với chức năng đội quân công tác, cần tích cực tham mưu giúp Đảng, Nhà nước trong thực hiện gắn kết giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh trên các vùng, miền, nhất là trên địa bàn chiến lược trọng điểm. Các cơ quan, đơn vị căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể của mình, chủ động làm tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các địa phương giải quyết tốt việc bố trí dân cư, chính sách lao động, việc làm; từng bước khắc phục những bất hợp lý về thu nhập, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương, đất nước. Tăng cường phối hợp với các lực lượng, triển khai có hiệu quả các dự án kinh tế, chương trình xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, giúp nhân dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, khắc phục hậu quả thiên tai. Đồng thời, tích cực huy động mọi nguồn lực của xã hội, đơn vị cùng Nhà nước chăm lo ngày một tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Cùng với đó, Quân đội cần góp phần vào việc phát triển văn hóa, giáo dục, y tế,… ở các địa phương bằng các chương trình hành động và việc làm cụ thể, thiết thực, như: Chương trình quân - dân y kết hợp, xóa mù chữ và tái mù chữ, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, v.v. Qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân đối với chế độ, với Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang. Đây cũng là mục tiêu, yêu cầu đặt ra đối với nhiệm vụ xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trên các địa bàn.
Đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở nước ta, nhân dân là chủ thể của đất nước và làm chủ chính bản thân mình. Có được quyền thiêng liêng ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã phải chịu biết bao hy sinh, xương máu để lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc bằng cuộc cách mạng Tháng Tám vĩ đại và những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vì thế, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta hết sức tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực, bằng cơ chế, chính sách, hình thức phù hợp, hiệu quả; đồng thời, coi đó là giải pháp quan trọng trong xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Về chính trị, nhân dân được tạo điều kiện tham gia dân chủ vào những vấn đề hệ trọng của đất nước, như: sửa đổi Hiến pháp, bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tham gia xây dựng dự thảo các văn kiện và công tác xây dựng Đảng,… Như vậy, có thể thấy, việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được thực hiện một cách thực chất, hoàn toàn không có việc “dân chủ hình thức”, dân chủ giả hiệu. Tuy nhiên, trong thời gian tới vẫn cần tiếp tục hoàn thiện thể chế dân chủ và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là ở cơ sở, bảo đảm mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và được kết tinh từ trí tuệ, tâm huyết của nhân dân. Về kinh tế, văn hóa, xã hội,… cũng tương tự như vậy, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện và bảo đảm thực chất. Hiện nay, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhìn chung là tốt, trở thành nền nếp. Tuy vậy, ở một số cơ sở vẫn còn những hạn chế, bất cập. Hiện tượng mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân chưa được ngăn chặn, khắc phục triệt để, gây nên những bức xúc trong nhân dân, và cùng với đó còn có cả biểu hiện tách rời giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật của Nhà nước, thậm chí lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, v.v. Vì thế, việc phát huy dân chủ, thực hiện dân chủ trong nhân dân phải gắn với tăng cường pháp chế, trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân; thực hiện tốt phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trong tình hình hiện nay, để thực hiện tốt dân chủ, trước hết cần quán triệt, nắm vững quan điểm của Đảng về vấn đề dân chủ, hiểu rõ nội hàm dân chủ. Cần thấy, để thực hiện tốt dân chủ trong xã hội thì vấn đề mấu chốt, quyết định là dân chủ trong Đảng. Bởi, Đảng là lực lượng lãnh đạo đất nước, dân chủ trong các tổ chức đảng được phát huy, thì sức chiến đấu và sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường và ngược lại. Nếu dân chủ trong Đảng không được bảo đảm, thì không thể có dân chủ trong xã hội. Theo đó, việc thực hiện dân chủ trong Đảng phải có nhiều giải pháp đồng bộ; trong đó, cần sớm hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hoạt động tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của ban thường vụ cấp ủy các cấp; đồng thời, coi trọng xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế giám sát của nhân dân trong quá trình xây dựng Đảng.
Xây dựng “thế trận lòng dân” là phạm trù rộng lớn, có tính thẩm thấu lâu dài, phải giải quyết nhiều cấp độ quan hệ của các giai tầng xã hội khác nhau, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,… nên rất cần sự vào cuộc với trách nhiệm cao nhất của cả hệ thống chính trị, các cấp, ngành, lực lượng. Trong đó, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp là vấn đề rất quan trọng. Cùng với chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, cấp ủy, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các cấp cần chủ động hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm tạo mọi điều kiện cần thiết để nhân dân phát huy nghị lực sáng tạo, tham gia rộng rãi, thường xuyên vào công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội cùng những chủ trương công tác của địa phương, đơn vị. Đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp phải tin dân, trọng dân, vì dân và luôn lắng nghe, quan tâm đến nguyện vọng chính đáng của nhân dân; kịp thời giải quyết những vướng mắc, bức xúc trong nhân dân, không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, phải tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân quán triệt, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; thấy rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; từ đó tổ chức, hướng dẫn nhân dân chủ động tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu hành động chống phá của chúng ngay từ cơ sở. Để làm được điều đó, từng tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phải được xây dựng trong sạch, vững mạnh; thường xuyên đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động, nhất là hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành,… đồng thời, phải phát huy vai trò giám sát của nhân dân, trực tiếp là của hội đồng nhân dân các cấp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội.
Cùng với đó, cần đẩy mạnh đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong bộ máy nhà nước và trong xã hội. Vấn đề tham nhũng, tiêu cực là một trong những nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo. Thực hiện tốt hay không tốt nhiệm vụ này sẽ tác động trực tiếp đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, liên quan đến sự mất còn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, Đảng ta khẳng định rõ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là trách nhiệm, quyết tâm chính trị của toàn dân. Đây là một trong những nội dung quan trọng, cấp thiết trong xây dựng “thế trận lòng dân”, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài và hết sức phức tạp. Để công tác này đi vào nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực, trước hết, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên tất cả các lĩnh vực, nhất là đối với các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao. Cùng với đó, phải nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng các cấp từ Trung ương đến địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác này, tạo sự thống nhất, tự giác, quyết tâm cao trong hành động. Các cấp ủy đảng cần nêu cao trách nhiệm, trước hết là trách nhiệm của người đứng đầu, có nhiều biện pháp kiên quyết và tích cực giáo dục, rèn luyện, quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, siết chặt kỷ cương của Đảng, kiên quyết thải loại những phần tử thoái hóa, biến chất, nhằm đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh của các tổ chức đảng và nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, cần tập trung xây dựng cơ chế phòng ngừa, răn đe, nghiêm trị đủ mạnh để triệt tiêu mọi hiện tượng tham nhũng ngay khi còn là mầm mống. Đồng thời, kiên quyết ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục “tư duy nhiệm kỳ”; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp và cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, v.v. Chỉ có như vậy mới ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
Xây dựng “thế trận lòng dân” là vấn đề hệ trọng, là việc làm thường xuyên có ý nghĩa cấp bách, lâu dài, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
MẠNH HÀ - MẠNH DŨNG - QUANG CHUYÊN
_________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.
2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 56.
IV
Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh
Trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và quá trình thực hiện nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, tư duy, nhận thức của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược có sự phát triển toàn diện, sâu sắc hơn. Trong đó Đảng ta nhấn mạnh sự kết hợp các nhiệm vụ: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”1. Nếu như văn kiện của các đại hội trước đây mới nhấn mạnh sự kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế thì Đại hội XII đề cập sự kết hợp này với nội hàn rộng hơn; và đây chính là điểm mới, điểm phát triển tư duy của Đảng về bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm đó của Đảng hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, các nguồn lực trên các lĩnh vực (nội lực) để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Đồng thời, nó còn xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, biến động khó lường, tác động trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta với cả những thuận lợi, khó khăn và thách thức.
Trong mối quan hệ giữa các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là trung tâm; văn hóa là nền tảng tinh thần, sức mạnh nội sinh quan trọng; quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; đối ngoại ngày càng có vị trí quan trọng. Mỗi lĩnh vực đó có vai trò, tầm quan trọng riêng, nhưng có mối quan hệ biện chứng, tác động, ràng buộc, hỗ trợ, thúc đẩy nhau trong quá trình phát triển. Vì thế không được coi nhẹ bất cứ nhiệm vụ nào, và điều quan trọng trong quá trình thực hiện phải đồng thời thực hiện kết hợp chặt chẽ với nhau ở mọi cấp độ, cả vĩ mô và vi mô trong mỗi khu vực, địa bàn cũng như trên phạm vi cả nước. Mục đích của sự kết hợp giữa các nhiệm vụ là phát huy nội lực, trên cơ sở khai thác thế mạnh của từng lĩnh vực, ngành, địa phương và cả đất nước; cùng với đó, phải tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài để tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, trước hết và thường xuyên là nhằm đánh bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Đảng ta xác định phát triển kinh tế là trung tâm, là nền tảng vững chắc, nhằm tạo ra tiền đề vật chất kỹ thuật để tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Sự kết hợp đó phải được thực hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Việc đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng ưu tiên các công trình “lưỡng dụng”, vừa bảo đảm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, vừa sẵn sàng phục vụ quốc phòng, an ninh khi cần thiết. Một nền kinh tế mạnh sẽ là một sự bảo đảm chắc chắn nhất cho sức mạnh quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, đầu tư cho quốc phòng phải phù hợp với khả năng của nền kinh tế; nếu tỷ lệ ngân sách quốc phòng, an ninh cao sẽ ảnh hưởng đến đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại nếu chỉ chú trọng đến phát triển kinh tế - xã hội mà không chú ý đúng mức đến quốc phòng, an ninh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và không đáp ứng được yêu cầu bảo đảm cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Nhiệm vụ chủ yếu của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại.
Trong nền văn hóa Việt Nam, có một bộ phận tiêu biểu là văn hóa quân sự; văn hóa quân sự Việt Nam kết tinh thấm đẫm tinh thần của văn hóa dân tộc, đó là, lòng yêu nước, thương nòi, đức hy sinh, dũng cảm, tinh thần và ý thức cộng đồng, ý chí quyết tâm đánh giặc, tính nhân văn sâu sắc “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn/ Lấy chí nhân thay cường bạo”, “Cử quốc nghênh địch”,... Văn hóa quân sự còn là những tổng kết khoa học, lý luận, rút ra từ lịch sử dân tộc, tạo thành nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu thắng mạnh”, đánh giặc bằng chiến tranh nhân dân, nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của ngoại bang và đánh bại chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Phát triển văn hóa chính là xây dựng con người phát triển toàn diện, trong đó có quân nhân. Đó là xây dựng để cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có lòng yêu nước, có năng lực, trình độ cao, đủ khả năng tiếp nhận, làm chủ khoa học quân sự hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2. Đại hội XII của Đảng cũng xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo 04 đặc trưng: dân tộc - nhân văn - dân chủ - khoa học; trong đó, chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để mở ra điều kiện và cơ hội thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ và quốc phòng, an ninh, làm cho các giá trị văn hóa thực sự đi vào đời sống xã hội trong hệ thống chính trị và phát triển kinh tế, v.v.
Hiện nay, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta về văn hóa, nghệ thuật; chúng khuyến khích các khuynh hướng văn hoá, nghệ thuật độc lập với chính trị; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá, nghệ thuật; phủ định văn học cách mạng, coi nhẹ văn hoá, nghệ thuật truyền thống dân tộc, các giá trị nền tảng tư tưởng, văn hoá Việt Nam (bản lĩnh chính trị, truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước...). Vì vậy, chúng ta phải tập trung bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng; kế thừa, phát huy truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu và các hoạt động xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận những giá trị lịch sử của dân tộc. Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong phát triển văn hóa, nghệ thuật. Tích cực đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên lĩnh vực văn hoá. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động về tư tưởng - văn hoá, báo chí, xuất bản, v.v. Tổ chức tốt việc học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng con người Việt Nam, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả, thiết thực trong hoạt động văn hoá với các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Sự ổn định xã hội vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để tăng cường quốc phòng, an ninh. Với đặc điểm đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh, hàng loạt vấn đề về xã hội do hậu quả chiến tranh để lại còn rất nặng nề; bên cạnh đó là những đặc điểm về dân tộc, tôn giáo, địa lý cũng tạo ra sự khác biệt về tư tưởng, phong tục, tập quán, kinh tế vùng miền, v.v. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề về xã hội; thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, “xóa đói, giảm nghèo”, v.v. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ yêu cầu “Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”3. Vì vậy, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng, cần tiếp tục xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống chính sách xã hội phù hợp, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế, khu vực khó khăn; có giải pháp quản lý, giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội; ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề gây bức xúc xã hội. Giải quyết tốt các vấn đề đó sẽ bảo đảm sự ổn định xã hội và là điều kiện để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như tăng cường sức mạnh của quốc phòng, an ninh. Mặt khác, quốc phòng, an ninh phải thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên từng địa bàn và trên phạm vi cả nước. Lực lượng vũ trang nhân dân phải thực hiện tốt chức năng của “đội quân công tác”, tích cực tham gia “xóa đói, giảm nghèo” và giúp đỡ chính quyền và nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội,... góp phần nâng cao đời sống nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Đồng thời, thực hiện tốt nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt, xung kích trên mặt trận phòng, chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
Trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, tình hình thế giới, khu vực, diễn biến phức tạp, khó lường, công tác đối ngoại có vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển đất nước nói chung và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh nói riêng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ yêu cầu, mục tiêu của hoạt động đối ngoại: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”4. Trong mối quan hệ đó, hoạt động đối ngoại sẽ tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để gắn kết, thúc đẩy, nâng cao sức mạnh tổng hợp mọi mặt của đất nước; nhất là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và góp phần đẩy mạnh hiện đại hóa Quân đội nhân dân, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân, công an nhân dân. Đặc biệt, phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với đối ngoại; triển khai đồng bộ các biện pháp dự báo chính xác tình hình quốc tế, khu vực, nhất là những động thái, xu thế biến động của tình hình quốc phòng, an ninh; từ đó, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về đối sách xử lý các tình huống, các vấn đề nhạy cảm, phức tạp một cách phù hợp, hiệu quả. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ yêu cầu “Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”5. Vì thế, Quân đội nhân dân phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng làm công tác đối ngoại, nắm chắc tình hình, các động thái liên quan đến quốc phòng, an ninh của đất nước để góp phần ngăn ngừa, triệt tiêu các nguy cơ gây chiến tranh, xung đột, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Cùng với đó, công tác đối ngoại còn góp phần xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam, làm giàu tri thức khoa học và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của hệ thống chính trị thông qua trao đổi, đào tạo với các nước tiên tiến. Qua đó, thúc đẩy thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực hiện kết hợp giữa các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại là quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Vì thế, các ngành, các cấp, các địa phương phải quan tâm thực hiện tốt nhằm không ngừng tăng cường tiềm lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
MẠNH HÀ - MẠNH DŨNG - QUANG CHUYÊN
____________
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 34.
2 - Sđd, tr. 126; 3 - Sđd, tr. 134; 4 - Sđd, tr. 153; 5 - Sđd, tr. 149.
V
Tăng cường sự quản lý của Nhà nước về quốc phòng
Quốc phòng là công việc hệ trọng của quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của Nhà nước và nhân dân, tạo sức mạnh toàn diện, cân đối để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Do vậy, quản lý nhà nước về quốc phòng là tất yếu khách quan, nhằm xác lập trách nhiệm pháp lý của Nhà nước đối với toàn xã hội về lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định phải tập trung “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng,…”1. Điều đó xuất phát từ thực tiễn tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh những năm vừa qua và yêu cầu, nhiệm vụ đối với lĩnh vực này trong tình hình mới. Đó cũng là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta trong tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, thể hiện sự phát triển, tư duy mới của Đảng trong lĩnh vực này, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường.
Sự phát triển tư duy của Đảng được thể hiện ở chỗ, tại Đại hội XI, việc quản lý nhà nước về quốc phòng được đề cập như một biện pháp thường xuyên trong quản lý nhà nước nói chung, mà chưa thấy hết những tác động phức tạp, khó lường, có tính đặc thù của nó đối với nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Đến Đại hội XII, căn cứ vào tình hình thực tiễn, Đảng ta yêu cầu việc quản lý nhà nước về quốc phòng phải nâng cao cả về hiệu lực và hiệu quả, trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật cùng cơ chế, chính sách của Nhà nước về quốc phòng trong từng lĩnh vực; thực hiện Nhà nước thống nhất quản lý về quốc phòng bằng luật pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng để đảm bảo quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của công dân được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Đây là sự phát triển có tính toàn diện và sâu sắc hơn, thể hiện sự thống nhất biện chứng về nội hàm của công tác quản lý nhà nước về quốc phòng và quan hệ giữa nó với các lĩnh vực khác trong điều kiện mới.
Điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII về lĩnh vực này là, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định tính pháp lý và “hiệu lực” phải đạt được trong quản lý nhà nước về quốc phòng trên tất cả các lĩnh vực. Điều đó có nghĩa là, cùng với hoàn thiện một cách khoa học, đồng bộ hệ thống pháp luật, công tác này phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp; có sự phân cấp, quy định trách nhiệm rõ ràng từ Trung ương tới cơ sở; sự tham gia của các cấp, ngành và toàn dân, bằng nhiều hình thức khác nhau theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, điều hành, nhân dân làm chủ. Trong đó, chủ thể quản lý bao gồm tổng thể các cơ quan nhà nước, mà nòng cốt là các cơ quan quản lý chuyên trách. Khách thể quản lý bao gồm tổng thể các lĩnh vực, các hoạt động xã hội có liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội và toàn dân. Cùng với chỉ ra mục tiêu: góp phần tạo ra sức mạnh quốc phòng toàn diện, Đảng ta xác định công tác này phải đồng thời bảo đảm tính cân đối, ổn định và phát triển trong các lĩnh vực khác, nhất là việc giải quyết giữa một bên là tăng trưởng kinh tế với bên kia là các yêu cầu khắt khe của quốc phòng, an ninh. Vì thế, quá trình nghiên cứu, quán triệt quan điểm của Đảng, chúng ta cần nắm vững nội hàm, tính chất, phương thức cũng như yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu của công tác này để không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Qua tổng kết 30 năm đổi mới đất nước cho thấy, trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng đã không ngừng được tăng cường, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tạo thuận lợi để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc quản lý nhà nước về quốc phòng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Trong đó, thách thức gay gắt nhất vẫn là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vấn đề nguy hiểm là, chúng lợi dụng việc nước ta tăng cường hội nhập quốc tế để có thể “đứng chân” một cách hợp pháp trên các địa bàn chiến lược, nhất là dưới vỏ bọc của các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi đó, nhiều nội dung, như: đất quốc phòng, các công trình phòng thủ, vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng,… trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng phát sinh những vấn đề mới, cần được quan tâm giải quyết. Vì thế, tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng, phải được quán triệt, triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, các tổ chức kinh tế, xã hội và toàn dân.
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là của cấp ủy các cấp đối với công tác quản lý nhà nước về quốc phòng. Đây là vấn đề rất quan trọng, mang tính nguyên tắc, được quy định tại Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam,… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Mặt khác, còn xuất phát bởi quốc phòng là lĩnh vực đặc thù, liên quan đến vận mệnh của đất nước, sự tồn vong của chế độ, nên việc quản lý bắt buộc phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sát sao của cấp ủy các cấp trên từng mặt công tác. Theo đó, sự lãnh đạo của Đảng không chỉ bằng quan điểm, đường lối thông qua các nghị quyết, chỉ thị, mà còn là sự chỉ đạo sắc bén về xây dựng thống nhất, đồng bộ cơ cấu tổ chức đảng trong lãnh đạo công tác quốc phòng từ Trung ương đến địa phương, nhất là ở địa phương, cơ sở. Cấp ủy các cấp tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các nội dung lãnh đạo về quốc phòng, cơ chế hoạt động và trách nhiệm phối hợp của từng cấp, ngành, địa phương liên quan đến hoạt động quốc phòng, nhất là khi xử lý các tình huống phức tạp, nhạy cảm. Bên cạnh đó, cần coi trọng lãnh đạo làm tốt công tác quy hoạch về quốc phòng theo hướng khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm những vấn đề căn cốt nhất của quốc phòng, an ninh không bị chi phối bởi bất cứ yếu tố chủ quan nào, tạo sự thống nhất, đồng bộ trong thực hiện ở từng ngành, lĩnh vực và cả nước. Trong đó, vấn đề về đất quốc phòng, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và nguồn nhân lực phục vụ cho quốc phòng là những nội dung cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong thời gian tới.
2. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng. Từ lý luận và hoạt động thực tiễn, chúng ta đã xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các luật về quốc phòng tương đối hoàn chỉnh, như: Luật Quốc phòng, Luật Dân quân tự vệ, Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, Luật Nghĩa vụ quân sự, v.v. Các luật này đã, đang đi vào cuộc, sống, góp phần quan trọng tạo sự thống nhất, công bằng và nâng cao hiệu quả hoạt động quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, trên thực tế (do nhiều nguyên nhân khác nhau), một số văn bản luật hiện không còn phù hợp, có biểu hiện chồng chéo, chưa sát với đối tượng thực hiện, thậm chí mâu thuẫn nhau, dẫn tới việc nhận thức thiếu thống nhất, gây khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện. Vì vậy, để tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế, chính sách về quốc phòng bảo đảm tính chuẩn mực, hợp hiến, hợp pháp, vững chắc và có khả năng dự báo cao, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa cơ quan ban hành luật (Quốc hội) với cơ quan tổ chức thực hiện (Chính phủ) và đối tượng thi hành (các tổ chức và công dân). Trong đó, với chức năng được giao là cơ quan chủ trì giúp Thủ tướng Chính phủ về quản lý nhà nước về quốc phòng, Bộ Quốc phòng cần phát huy vai trò tham mưu giúp Đảng, Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ đạo việc soạn thảo, ban hành và giám sát, kiểm tra việc thi hành luật của các ban, ngành, lĩnh vực, địa phương. Đây là vấn đề rất hệ trọng, có tác động trực tiếp đến cả đời sống xã hội trong nước và quan hệ quốc tế, nên cần được nghiên cứu một cách khoa học, khách quan, toàn diện cả về lý luận và thực tiễn; đồng thời, phải lựa chọn đội ngũ cán bộ soạn thảo có kiến thức rộng và chuyên sâu, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình thực hiện, cần coi trọng tính đồng bộ, thống nhất về nội dung và đi sâu vào những vấn đề cấp thiết đang đặt ra; tránh chồng chéo về chức năng, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, tạo chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.
3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng. Quản lý nhà nước về quốc phòng là phạm trù có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực, các cấp, ngành, địa phương và toàn dân, cả trong nước và ngoài nước. Do vậy, quản lý chặt chẽ, toàn diện lĩnh vực này không thể chỉ tập trung vào một số cơ quan chức năng, mà đòi hỏi hình thành hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ Trung ương đến cơ sở. Hiện nay, công tác quản lý nhà nước về quốc phòng do chính quyền các cấp chủ trì, cơ quan quân sự cùng cấp làm trung tâm tham mưu, phối hợp hiệp đồng. Ở các ở một số bộ, ngành tuy đã thành lập Ban Chỉ huy quân sự nhưng một số nơi chưa hoàn chỉnh; trong khi đó, kiến thức, năng lực của cán bộ làm công tác chuyên trách về lĩnh vực này còn nhiều bất cập. Để khắc phục tình trạng đó, thời gian tới, cùng với xác định trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong quản lý nhà nước về quốc phòng, cần nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh bộ máy chuyên trách quản lý quốc phòng, quân sự ở tất cả các cấp theo hướng: đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng theo quy định. Đồng thời, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở các cấp, ngành, cơ quan, tổ chức và địa phương. Thực hiện nghiêm quy định: bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh là tiêu chuẩn bắt buộc và là một trong những tiêu chí để xem xét đề bạt, bổ nhiệm các chức danh cán bộ. Thực hiện tốt Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh nói chung và công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đội ngũ cán bộ các cấp nói riêng là cơ sở để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về quốc phòng.
4. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc quản lý nhà nước về quốc phòng ở tất cả các cấp, ngành, lĩnh vực. Trong đó, thực hiện tốt việc phân công, phân nhiệm và có nhiều hình thức, biện pháp thanh tra, kiểm tra cả thường xuyên và đột xuất, cả kiểm tra chung và theo các chuyên ngành. Cùng với đó, cần đề cao vai trò của quần chúng nhân dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ngay tại cơ sở. Quá trình thực hiện cần nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, đặc điểm, điều kiện của từng ngành, lĩnh vực để đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, vai trò, trách nhiệm của từng cấp, ngành, cá nhân trong tổ chức triển khai thực hiện công tác quốc phòng, quân sự; đồng thời, tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Trên cơ sở đó, tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và có biện pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng ở tất cả các cấp trong tình hình mới.
*
* *
Quán triệt và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII nói chung và quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh nói riêng là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong đó, trước hết, đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp phải nắm chắc tư duy mới về quốc phòng, quân sự của Đảng. Đó là, hệ thống các quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng - an ninh trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quan điểm về xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, v.v. Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, đòi hỏi phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp; trong đó, cần phát huy cao độ vai trò, vị trí, ý thức trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên; đó là cơ sở để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
MẠNH HÀ - MẠNH DŨNG - QUANG CHUYÊN
_______________________
1- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 151.