Được tin có khách ở Kon Tum đến chơi, từ nhà dưới đi lên đón khách, ở tuổi 92 nhưng những bước đi của ông KSor Ní, người dân tộc Jơ Rai sinh năm 1924 tại Buôn Thăm, huyện A Pun Pa, tỉnh Gia Lai, nguyên chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai vẫn chắc khỏe với vóc dáng của một người con núi rừng Tây Nguyên.
- Bác còn khỏe chứ ạ? Tôi hỏi.
- Tôi phải sống để chứng kiến công cuộc đổi mới của đất nước, cuộc sống mới của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chứ.
Nói rồi, ông mời chúng tôi ngồi và hỏi chuyện tôi cùng nhà báo Lê Văn Thiềng, nguyên Trưởng Ban Công tác hội của Hội Nhà báo Việt Nam. Biết chúng tôi làm báo, ông kể chuyện ông đã từng viết báo cách mạng từ năm 1946. Và câu chuyện giữa 3 người chúng tôi cứ tự nhiên mà đến như thế.
Người đầu tiên ở Tây Nguyên viết báo cách mạng
Năm 1946, ông được ra Hà Nội dự Đại hội Thanh niên các dân tộc Việt Nam. Khi đó, đài phát thanh của Pháp nói là người dân Tây Kỳ (Tây Nguyên) niềm nở đón tiếp quân Pháp xâm chiếm Tây Kỳ, ông tức lắm vì không đúng sự thật. Người dân Tây Nguyên luôn một lòng theo cách mạng, đoàn kết đánh đuổi giặc Pháp. Thế là sẵn nói và nghe được tiếng Pháp, Kso Ní, chàng trai Tây Nguyên lúc ấy đã viết ngay một bài báo bằng tiếng Pháp gửi cho báo Lơ-Pớp (tiếng Pháp có nghĩa là Nhân dân) phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của đài phát thanh Pháp; cổ vũ, động viên đồng bào Tây Nguyên đánh giặc giữ buôn làng. Khi bài viết được đăng, Bác Hồ đã cho mời ông vào Bắc Bộ Phủ. Đó là một buổi chiều lịch sử, mãi mãi theo ông trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình.
Một buổi chiều cuối thu năm 1946, đồng chí Y Ngông Nick Đam (cố chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội) đến gặp ông và nói: Đồng chí được vào Bắc Bộ Phủ để gặp Bác Hồ. Thế là ông đi theo Y Ngông Nick Đam vào Bắc Bộ Phủ. Khi gặp Bác ở phòng làm việc, ông xúc động, lúng túng nên cứ bám riết lấy Y Ngông. Nhớ lại buổi gặp Bác đầu tiên ấy, ông kể: “Bác ngồi trước mặt chúng tôi, ân cần hỏi thăm sức khoẻ, hỏi thăm gia đình hai chúng tôi. Đồng chí Y Ngông chỉ vào tôi rồi giới thiệu với Bác: “Đây là đồng chí KSor Ní, là thanh niên dân tộc Jơ Rai”. Bác cười, gật đầu. Tôi cứ sững sờ nhìn Bác. Bác gần gũi và thân tình quá, tự nhiên tôi không còn e ngại nữa. Bác hỏi thăm sức khỏe của mọi người ở Nha Dân tộc. Đồng chí Y Ngông Nick Đam báo cáo rằng: "Thưa Bác, giặc Pháp đã chiếm mất Tây Kỳ rồi ạ". Bác nói: "Bác biết rồi" và thấy nét mặt của Bác thoáng buồn. Lúc ấy, Kso Ní xen vào: "Thưa Bác, ta có đánh Pháp để giải phóng Tây Kỳ không ạ". Bác đứng dậy đến cầm tay hai chúng tôi nói: "Phải đánh". Rồi Bác đưa bàn tay lên, ý nói là bàn tay có 5 ngón nếu thiếu một ngón thì không còn là một bàn tay. Cũng như cả nước Việt Nam độc lập thì Tây Kỳ cũng được hưởng hạnh phúc do nền độc lập của Tổ quốc đem lại”.
Nghe Bác nói vậy, tôi và đồng chí Y Ngông rất phấn khởi. Bác khuyên chúng tôi cố gắng học tập, giữ gìn sức khoẻ và làm công tác cách mạng tốt hơn. Từ bé học ở trường của Pháp, toàn viết và nói tiếng Pháp, song nghe lời Bác dạy bảo, chỉ sau ba tháng, tôi đã biết đọc, biết viết tiếng phổ thông và được vào làm việc trong Phòng Văn xã của Nha Dân tộc Trung ương tại Hà Nội. Ngày 15-12-1946, trước lúc Bác Hồ kêu gọi toàn quốc kháng chiến 4 ngày, tôi được vinh dự kết nạp vào Đảng. Thế là từ một thanh niên trí thức dân tộc, được giác ngộ cách mạng, tôi đã trở thành một đảng viên cộng sản”.
Từ ngày được gặp Bác Hồ, tôi luôn tâm niệm phải sống xứng đáng với niềm tin của Bác đối với đồng bào Tây Nguyên. Khi trở về quê hương Gia Lai, điều đầu tiên tôi kể cho bà con biết là về Bác Hồ và Đảng Cộng sản.
Cách mạng đổi đời cho người dân Tây Nguyên
Trong câu chuyện với chúng tôi, ông vẫn nhớ đến từng chi tiết cuộc đời của mình và người dân tộc Jơ Rai ở Tây Nguyên quê ông trong những tháng năm gian khổ nhưng vẫn một lòng theo cách mạng. Cùng vào thời điểm đó, gia đình ông và đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nghèo lắm. Nhà trong buôn làng bấy giờ tuềnh toàng, đàn ông đóng khố, cởi trần. Đàn bà khi lấy chồng, có con là trên người chỉ còn độc một cái váy và cũng ở trần như đàn ông.
Cha mẹ ông sinh được 4 người con, ông là con út và là con trai duy nhất. Quanh năm quần quật với nương rẫy, đói thì đi đào củ rừng, rét thì đốt lửa sưởi, đau thì rước thầy về cúng đuổi ma. Thuở còn ngồi ôm lưng cha, cậu bé KSor Ní đã thấy cảnh lính Pháp từ Đồn Cheo Reo (giáp với tỉnh Phú Yên bây giờ) về Buôn Thăm lùng bắt người đi lính, đòi thuế và bắt con gái đẹp đưa lên đồn cho quan Tây. Người nào chống lại đều bị chúng tra tấn, đánh đập rất dã man. Tuổi thơ của ông được nghe kể nhiều về những người cộng sản. Có lần, ông theo cha đi uống rượu với một người đi lính khố xanh cho Tây về phép. Người lính khố xanh này kể chuyện về cuộc đấu tranh lưu huyết của những người tù cộng sản tại ngục Kon Tum: “Những người cộng sản nói Pháp là kẻ cướp nước, cho nên người cộng sản không sợ chết, không sợ tù đày. Pháp bắn người này ngã xuống, lập tức người sau xông lên, chết vẫn không lùi bước”. Nhiều người ở Buôn Thăm tỏ lòng khâm phục, muốn được xem mặt người cộng sản. “Người cộng sản chống Pháp cũng giống như đồng bào ở Buôn Thăm chống Pháp thôi”. Ông Siu Jơ Ling, cha của KSor Ní nói như vậy sau cái lần bị lính Tây ở Đồn Cheo Reo bắt giam mười ngày vì “tội” giấu thanh niên không khai tên để trốn nộp thuế thân. Năm 1935 ông bị Pháp tra tấn đến mang bệnh, không có thuốc cứu chữa nên đã qua đời.
Sau khi cha mất, KSor Ní phải sang ở với người anh rể tên là Rơ Ô Bơng ở Buôn Săm Ma Na bắt đầu học lớp 1 rồi sang tỉnh Buôn Ma Thuột học hết bậc tiểu học (Prime). Suốt sáu năm học, KSor Ní luôn đạt học sinh giỏi. Tốt nghiệp Prime, năm 1941, KSor Ní chuyển đi học tại trường Võ Tánh (Quy Nhơn). Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật lên cầm quyền. Trường Võ Tánh chuyển sang học tiếng Việt (trước đó sinh phải học hoàn toàn bằng tiếng Pháp). Đầu tháng 4-1945, trên đường từ Quy Nhơn về Cheo Reo, ông dừng lại ở Plây Ku để nghe ngóng tình hình, ghé thăm ông Nay Phin, Hiệu trưởng Trường tiểu học Plây Ku. (Tầng lớp thanh niên trí thức người dân tộc khi ấy thường xuyên tập hợp thành từng tốp nhỏ để diễn thuyết, nói chuyện).
Tháng 6-1945, anh Rơ Chăm Thép từ Trường Canh nông ở Tuyên Quang về. Gặp KSor Ní, anh mừng lắm, kể: “Ở Tuyên Quang, phong trào Việt Minh nổi lên rất mạnh, kêu gọi đánh Pháp, đuổi Nhật. Trừ một số ít người về quê, còn phần lớn học sinh đều bỏ học, lên rừng theo Việt Minh. Tôi nhớ quê, nhớ cha mẹ quá nên xin về đây”. Anh Rơ Chăm Thép cũng kể cho bạn nghe những điều mình hiểu biết về Việt Minh: “Việt Minh chủ trương đánh Pháp, đánh cả Nhật, giành lại độc lập, tự do cho đất nước Việt Nam, thực hiện đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc”. Thấy vấn đề mới mẻ quá, ông quyết định không về quê, mà ở lại Plây Ku tiếp tục tham dự các buổi sinh hoạt của thanh niên.
Tháng 8-1945 sau khi đón đại diện của Việt Minh về tiếp nhận chính quyền tại Plây Ku, ông cùng với ông Nay Phin về quê tổ chức khởi nghĩa, bao vây huyện lỵ Cheo Reo, buộc chính quyền tay sai thân Nhật phải hạ vũ khí đầu hàng. UBND cách mạng huyện Cheo Reo được thành lập do đồng chí Nay Phin làm Chủ tịch, ông được phân công phụ trách tài chính. Ông kể: “Sau ngày 2-9-1945, chúng tôi mới biết cả nước đã có Chính phủ lâm thời do cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cụ Hồ Chí Minh cũng là người đứng đầu Việt Minh, là lãnh tụ của các dân tộc Việt Nam”.
Trong cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước ta tháng 1-1946, ông KSor Ní được bầu là đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai khoá I. Từ tháng 3-1946, ông về Plei Ku tham gia tổ chức Đại hội đoàn kết nhân dân các dân tộc Tây Nguyên chống Pháp. Đại hội vui mừng được nhận thư của Bác Hồ và ghi nhớ lời dạy của Người.
Cuộc đời của ông kinh qua nhiều vị trí trọng trách ở tỉnh Gia Lai, song điều quý nhất là ông đã để lại những bài học tinh thần về ý chí và lòng quyết tâm theo Đảng, theo cách mạng, gieo những hạt mầm xanh trên đất Tây Nguyên. Các con của ông đều tiếp nối truyền thống cách mạng của gia đình. Trong số đó có đồng chí Kso Phước, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; đồng chí Kso Nham, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Gia Lai, hiện nay là Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Kỹ thuật - Hậu cần, Bộ Công an.
Trước khi chia tay chúng tôi, đồng chí Kso Ní đã đọc bài thơ bằng tiếng Jơ Rai do chính đồng chí viết để tuyên truyền cho đồng bào Tây Nguyên ngày trước. Giọng của đồng chí còn đầy nhiệt huyết: "Hồ Chí Minh anh dũng phi thường!Hồ Chí Minh có chủ trương, đường lối đúng đắn. Chúng ta tuyên truyền cho mọi người biết, tên người như Vàng? Hồ Chí Minh là người điều khiển chế độ chúng ta? Người Jơ Rai, người Tây Nguyên quyết một lòng đánh Pháp". Đọc xong những câu thơ trên, ông đứng dậy đưa bàn tay phải đặt vào bên ngực trái rồi nói: "Đảng, Bác Hồ luôn ở trong trái tim tôi".
Giữa ngôi nhà nhỏ nằm trên đường Phan Đình Phùng của thành phố Plei Ku, tỉnh Gia Lai, ông Kso Ní đón đứa chắt ngoại từ tay người con gái út, nét mặt ông rạng ngời nhìn lên tấm ảnh Bác Hồ treo trang trọng ở giữa nhà. Ra đi từ Buôn Thăm, trên con đường đi theo cách mạng, với những trải nghiệm từ cuộc đời ông cũng như của bà con Tây Nguyên, ông KSor Ní càng thấy rõ hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi dân tộc đều không thể tách rời hạnh phúc chung của cả đất nước.
Nguyễn Văn Chiến
Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy khối Doanh nghiệp tỉnh Kon Tum