1. Hoàn cảnh ra đời và mục đích của tác phẩm
Sau khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm tới việc xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ đảng viên gương mẫu về đạo đức cách mạng, trong sạch, vững mạnh. Điều này thể hiện rõ trong một số tác phẩm, như Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng (tháng 10-1945), Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ (tháng 3-1947), Thư gửi các đồng chí Trung Bộ (năm 1947). Trong các thư này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy của Đảng và Chính phủ, nhưng vẫn chưa được sửa chữa, khắc phục. Trước tình hình đó, vào tháng 10-1947, tại Việt Bắc với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" để khẳng định rõ hơn nhiệm vụ then chốt là xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; đó là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn lịch sử tiếp theo.
Sửa đổi lối làm việc thể hiện tư tưởng lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đảng cầm quyền trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Phải sửa đổi trong tư tưởng, trong từng tổ chức và trong cách làm của từng cán bộ, đảng viên để thích ứng với tình hình thực tế lịch sử.
Sửa đổi lối làm việc tập trung vào 6 vấn đề lớn cơ bản: (1) Phê bình và sửa chữa; (2) Mấy điều kinh nghiệm; (3) Tư cách và đạo đức cách mạng; (4) Vấn đề cán bộ; (5) Cách lãnh đạo; (6) Chống thói ba hoa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những căn bệnh, yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên và tác hại của nó đối với đảng cầm quyền; đặt ra nhiệm vụ sửa đổi lối làm việc để chỉnh đốn lại Đảng, làm cho Đảng “mạnh khỏe, chắc chắn”, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng với vai trò tiền phong và gắn bó mật thiết với nhân dân.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán “chủ nghĩa cá nhân” vì đó là một thứ “vi trùng rất độc”, nó sinh ra các “bệnh nan y”; những sai lầm, khuyết điểm, lệch lạc trong nhận thức, tư tưởng, trong phẩm chất đạo đức, lối sống và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, Hồ Chí Minh vạch ra nguyên nhân và phương hướng khắc phục.
Ý tưởng cốt lõi nhất trong tác phẩm này là công tác đánh giá, giáo dục, rèn luyện và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ năng lực làm việc và có tư cách đạo đức tốt, thực sự là “công bộc” của nhân dân. Sửa đổi lối làm việc sẽ giúp giải quyết những yếu kém trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn của một đảng cầm quyền. Những nội dung này được thể hiện rõ trong các mục “Mấy điều kinh nghiệm”, “Vấn đề cán bộ”, “Cách lãnh đạo” và “Chống thói ba hoa”, để đội ngũ cán bộ, đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, tốt hơn.
2. Những ý tưởng về công tác đánh giá cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng công tác đánh giá cán bộ là việc khó, nhưng cần phải làm một cách công tâm, khách quan, toàn diện, biện chứng lịch sử. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ có trường hợp trong kháng chiến thì chiến đấu anh dũng, nhưng khi sống trong cuộc sống thành thị thì lại mất lập trường và sa vào con đường tội lỗi. Việc đánh giá cán bộ, đảng viên của Đảng bao trùm những ưu điểm và thành tích, nhưng cũng thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm cần sửa chữa.
Để đánh giá đúng cán bộ thì đòi hỏi người đánh giá phải công tâm, vô tư, khách quan. Trước hết, người đánh giá cán bộ cần phải hiểu đúng cán bộ. Người nói: “Hiểu biết cán bộ - Biết người, cố nhiên là khó. Tự biết mình, cũng không phải là dễ. Đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”. Bản thân người đánh giá cũng phải “tự sửa mình”. “Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình”. “Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc chắn không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”. Đó là tinh thần tự phê bình của cá nhân người cán bộ; sau đó được tập thể, cấp ủy và đơn vị góp ý kiến xây dựng theo tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng. Đánh giá cán bộ phải dựa vào dân, lấy ý kiến của dân, đem ra tập thể bàn bạc và đi đến thống nhất.
Việc đánh giá cán bộ phải căn cứ hoàn cảnh lịch sử, quá trình hoạt động, bao trùm các mặt, tránh phiến diện, định kiến. Người nói: “thả cho họ làm, thả cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ. Nhưng phải luôn luôn tuỳ theo hoàn cảnh mà bày vẽ cho họ về phương hướng công tác, để họ phát triển năng lực và sáng kiến của họ đúng với đường lối của Đảng”. “Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không sai lầm. Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”. Người nói: “nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng việc đánh giá cán bộ phải dựa trên các tiêu chí cơ bản là đức và tài. “Đức” là đạo đức cách mạng, “Tài” là người có khả năng hành động, làm việc mang lại hiệu quả cao. Đức và tài phải thống nhất với nhau và trong đó đức là gốc, “cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì giỏi mấy cũng không làm lãnh đạo được nhân dân”. Sửa đổi lối làm việc đã chỉ rõ nội dung về tư cách và đạo đức cách mạng như các tiêu chuẩn cho cán bộ, đảng viên, đồng thời là cơ sở để đánh giá cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải trọng lợi ích của Đảng và có đạo đức cách mạng. “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của Dân tộc, của Tổ quốc”.
Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, cần hội tụ 5 phẩm chất: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
“NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm được.
NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn.
TRÍ vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian.
DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
LIÊM là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá”.
Đối với mỗi đảng viên cần có bổn phận đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân: a) Suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; b) Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết; c) Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; d) Kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng; đ) Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; e) Cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hoá. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng.
Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc: Một là, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; Hai là, Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn; Ba là, lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
Đánh giá người cán bộ, đảng viên tốt cần phải căn cứ vào phẩm chất tốt đẹp CHÍ CÔNG VÔ TƯ. Người cho rằng trong Đảng ta còn có những người chưa học được, chưa làm được bốn chữ "chí công vô tư", cho nên mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau đây: Bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, "hữu danh, vô thực", kéo bè kéo cánh, tị nạnh, xu nịnh, a dua,…Người dạy: “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”.
Phê bình và tự phê bình là thang thuốc hay để tự nhận ra mình, giúp cán bộ mình xem xét, đánh giá lẫn nhau, giúp nhau khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm, cùng nhau tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý rằng trong phê bình và tự phê bình cán bộ, đảng viên của mình, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, châm chọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người.
Người nêu lên những căn bệnh mà người cán bộ thường mắc phải cần sửa chữa. Đó là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa.
Bệnh chủ quan là chứng bệnh nguy hiểm gây tác hại lớn cho cách mạng. Khi mắc bệnh này, cán bộ, đảng viên thường giải quyết công việc dựa vào ý chỉ chủ quan, mà không căn cứ vào điều kiện cụ thể và quy luật khách quan. Do không biết nhận rõ điều kiện, hoàn cảnh khách quan, khăng khăng làm theo ý mình, nên kết quả thường nhận lấy thất bại. Người chỉ rõ nguyên nhân của bệnh chủ quan là: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”. Người cho rằng “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Người mắc bệnh chủ quan đều coi khinh lý luận, làm việc chỉ theo kinh nghiệm của bản thân, không biết khái quát thành lý luận chung, giải quyết công việc một cách sự vụ, vụn vặt. Đó là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ bệnh lý luận suông là bệnh giáo điều chủ nghĩa. Đó là sự bắt chước kinh nghiệm của người khác một cách máy móc, mù quáng; xem thường kinh nghiệm của quần chúng, không năng đi xuống cơ sở để học tập và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn...
Bệnh hẹp hòi là căn bệnh rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ và đảng viên còn mắc phải. “Trong, thì bệnh này ngăn cản Đảng thống nhất và đoàn kết. Ngoài, thì nó phá hoại sự đoàn kết toàn dân”. Biểu hiện của bệnh này là chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa cá nhân, tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa... Từ trước đến nay, vì bệnh hẹp hòi mà có những sự lủng củng giữa bộ phận và toàn cục, đảng viên với Đảng, cán bộ địa phương với cán bộ phái đến, cán bộ quân sự với cán bộ mặt trận, cán bộ mới và cán bộ cũ, cơ quan này và cơ quan khác. Bệnh hẹp hòi của cán bộ, đảng viên còn biểu hiện ở thói tự tôn tự đại, khinh rẻ người ta, không muốn biết, muốn học những ưu điểm của người khác. Những cán bộ, đảng viên mắc bệnh này quên rằng: chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. “Chúng ta phải kiên quyết chữa ngay bệnh ấy, mỗi một đảng viên, mỗi một bộ phận, mỗi một lời nói, việc làm, tuyệt đối phải nhằm vào lợi ích của toàn cuộc, lợi ích của toàn Đảng”.
Bệnh ba hoa là nói và viết dài dòng, rỗng tuếch, dùng chữ cầu kỳ, khó hiểu, không nhằm đúng đối tượng, quần chúng không hiểu, cho nên không có tác dụng gì cả. Người nhắc nhở: cán bộ tuyên truyền bao giờ cũng tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nếu không vậy, thì cũng như có ý không muốn cho người ta nghe, không muốn cho người ta xem.
3. Một số bài học về công tác đánh giá cán bộ
Sửa đổi lối làm việc là tác phẩm có giá trị lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, trong đó có nhiều tư tưởng lớn về cán bộ và đánh giá cán bộ. Tác phẩm mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tác phẩm bao quát những vấn đề rộng lớn trong toàn bộ các mối quan hệ và các nguyên tắc, phương pháp, phong cách làm việc của Đảng, phẩm chất quan trọng của cán bộ, đảng viên. Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Sửa đổi lối làm việc chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém và phương cách để khắc phục chúng.
Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc ra đời cách đây 70 năm, những tư tưởng nêu trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay, đặc biệt đối với quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng. Qua nghiên cứu tác phẩm, có thể rút ra một số bài học về công tác đánh giá cán bộ như sau:
Thứ nhất, coi trọng cán bộ và công tác cán bộ phù hợp tình hình thực tế
Hồ Chí Minh đã khẳng định cán bộ là cái "gốc" của mọi công việc. Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Việc ra đời tác phẩm Sửa đổi lối làm việc là để xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong hoàn cảnh Đảng và Nhà nước đang lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Khi đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng có biểu hiện khuyết điểm, “bệnh nan y”, Sửa đổi lối làm việc là một chỉ thị quan trọng của Đảng nhằm khắc phục những yếu điểm đó, củng cố sự đoàn kết, sức mạnh và làm trong sạch Đảng.
Trong tình hình hiện nay, có nhiều thay đổi, một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn mắc phải những khuyết điểm, “bệnh nan y” giống như trong Sửa đổi lối làm việc đã chỉ ra; bên cạnh đó còn xuất hiện những khuyết điểm, “bệnh nan y” mới. Tư tưởng về xây dựng Đảng, công tác cán bộ của Người trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc vẫn còn nguyên giá trị, cần được vận dụng triệt để vào trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Công tác xây dựng Đảng đặt ra nhiệm vụ cấp bách để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Thứ hai, cần hiểu đúng cán bộ để đánh giá đúng
Người đánh giá cán bộ trước tiên phải là người mẫu mực, biết nêu gương, “tự sửa mình”. Hơn nữa, người đánh giá cán bộ cần hiểu đúng cán bộ, đảng viên của mình thông qua quá trình công tác, kết quả công việc, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của họ. Tinh thần phê bình và tự phê bình thẳng thắn, trung thực, mang tính xây dựng trong tập thể, cấp ủy và đơn vị là thang thuốc bổ để mỗi cán bộ, đảng viên hiểu nhau đầy đủ hơn, biết được những ưu điểm và nhược điểm để cùng nhau khắc phục nhược điểm, phát huy ưu điểm, cùng nhau đoàn kết và tiến bộ. Đó là bài học quý rút ra từ tư tưởng trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc cần được vận dụng vào tình hình thực tiễn hiện nay trong công tác quản lý và đánh giá cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, cần xây dựng các tiêu chuẩn, phẩm chất về cán bộ, đảng viên làm căn cứ đánh giá
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng việc đánh giá cán bộ phải dựa trên các tiêu chí cơ bản là đủ đức và tài. “Đức” là đạo đức cách mạng, “Tài” là người có khả năng hành động, làm việc mang lại hiệu quả cao, biết kết hợp lý luận và thực hành. Đức và tài phải thống nhất với nhau và trong đó đức là gốc. Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, cần hội tụ 5 phẩm chất: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Người cán bộ, đảng viên tốt phải là người chí công vô tư.
Mỗi cán bộ, đảng viên biết đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết, suốt đời tranh đấu cho Dân tộc, cho Tổ quốc; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng.
Hiện nay, Đảng ta đang chỉ đạo các cơ quan chức năng như Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở đó là căn cứ quan trọng để đánh giá năng lực, phẩm chất cán bộ, đảng viên một cách khách quan, chính xác.
Thứ tư, việc đánh giá cán bộ phải thực sự khách quan, phương pháp đúng
Bài học quan trọng qua nghiên cứu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung là hiểu đúng và đánh giá đúng cán bộ một cách công tâm, khách quan, tránh việc đánh giá phiến diện, căn cứ hoàn cảnh lịch sử. Việc đánh giá cán bộ, đảng viên của Đảng bao trùm những ưu điểm và thành tích, nhưng cũng thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm cần sửa chữa.
Nhận xét, đánh giá cán bộ phải tổng thể toàn bộ công việc, không nên chỉ xét tại thời điểm. Nhận xét, đánh giá cán bộ phải xuất phát từ hiện thực khách quan, với quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể. “Nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”.
Thứ năm, đánh giá cán bộ phải gắn kết chặt chẽ với các khâu khác trong công tác cán bộ
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh quan tâm tới các khâu của công tác cán bộ như “huấn luyện cán bộ”, “cân nhắc cán bộ cho đúng”, “khéo dùng cán bộ”,… Đó là tư duy mang tính hệ thống của Người trong công tác cán bộ.
Việc đánh giá cán bộ là khâu cần thiết, gắn kết với tất cả các khâu khác liên quan có ý nghĩa to lớn trong của công tác cán bộ của Đảng. Kết quả đánh giá cán bộ là căn cứ quan trọng để tiến hành các khâu khác như quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng,… Các khâu công tác cán bộ đều được thực hiện đúng sẽ bảo đảm cho việc phát triển đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất cách mạng, đủ tài và đức lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Mai Văn Chính
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương-----
Tài liệu tham khảo
Hồ Chí Minh. Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc.
Văn kiện Hội Nghị Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.