Công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới

Công tác dân vận (CTDV) là một trong những công tác cơ bản của Đảng; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. CTDV trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một nội dung cơ bản của công tác đảng, công tác chính trị được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cấp ủy, chỉ huy các đơn vị hết sức quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đó vừa là trách nhiệm chính trị, vừa thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân. Tiến hành CTDV là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng là lực lượng nòng cốt để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh.

CTDV của quân đội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước. Tiến hành vận động mọi người dân trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác, địa bàn cư trú. CTDV của quân đội có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội ta. Tầm quan trọng đó, trước hết được được thể hiện bởi sức mạnh của quần chúng nhân dân trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công[1].  Đối với quân đội, Người nhấn mạnh: “Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu”[2]. Trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc ngày 11-6-1948, Người chỉ rõ: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần phải trở nên một chiến sĩ, tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”… “Cách làm là: dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: hạnh phúc cho dân[3]. Quán triệt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt nam, Đảng ta khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ” (Nghị quyết Trung ương 7, khóa XI). Những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân dân, có vai trò quan trọng trong hình thành đường lối đổi mới của Đảng, dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ta quy luật phát triển, đó là chìa khóa của thành công.

Thực hiện tốt CTDV, củng cố mối quan hệ  máu thịt quân - dân, phát huy bản chất “ Bộ Đội Cụ Hồ”, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện tốt chức năng là đội quân công tác trong tình hình mới; Thực hiện Nghị quyết 152-NQ/ĐUQSTW, ngày 1-8-2003 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường CTDV của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới” CTDV của quân đội đã đi vào chiều sâu, hoạt động đúng định hướng, bám sát yêu cầu nhiệm vụ, đi sâu vào mọi tầng lớp nhân dân, vận dụng cụ thể sát với từng đối tượng, địa bàn và điều kiện của từng đơn vị. Các đơn vị trong lực lượng vũ trang đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể địa phương tiến hành công tác tuyên truyền vận động nhân dân với nhiều nội dung, hình thức phong phú, hiệu quả. Tích cực, chủ động tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh, trước hết tập trung xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh về chính trị và quốc phòng - an ninh, góp phần hiệu quả trong tham gia phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giúp đỡ nhân dân lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, ổn định và nâng cao đời sống, làm tốt vai trò nòng cốt trong phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ cứu nạn, nhất là trên địa bàn có vị trí chiến lược, nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ...

Cụ thể, bộ đội Biên phòng, các Binh đoàn, Tập đoàn Viễn thông Quân đội và các Đoàn kinh tế quốc phòng đã tham gia hàng trăm chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; “Quân đội tham gia xây dựng nông thôn mới”. Nổi bật là: Chương trình xóa 1.000 nhà tạm cho bà con dân tộc ở Quảng Ninh, Ninh Bình của Quân khu 3; Quân khu 5, Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đoàn 2 nhận đỡ đầu các vùng sâu, vùng xa; Quân khu 7, xây dựng làng mới kiểu mẫu cho đồng bào dân tộc vùng căn cứ Tà Thiết và địa bàn đặc biệt khó khăn…Chương trình kết hợp quân dân y đã tham gia củng cố gần 1.500 trạm y tế ở vùng sâu,vùng xa, xây dựng mô hình trung tâm y tế  kết hợp quân dân y hoạt động thiết thực hiệu quả. Chương trình 1 tỷ đồng xây dựng mái ấm công đoàn của Công đoàn Quốc phòng; Chương trình 10.000 địa chỉ tình nghĩa và đỡ đầu 1.000 tổ chức Đội Thiếu niên tiền phong của thanh niên Quân đội… Thực sự có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc, thu hút được sự quan tâm phối hợp chỉ đạo của cấp ủy và sự tham gia hưởng ứng mạnh mẽ, sâu rộng của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân.

Tuy nhiên, CTDV của quân đội trong thời gian qua còn có không ít những hạn chế: Một số cấp ủy, chỉ huy, cơ quan đơn vị trong toàn quân chưa quán triệt sâu sắc, đầy đủ các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị và của Quân ủy trung ương về CTDV. Sự phối hợp giữa CTDV với các mặt công tác khác, giữa các lực lượng, ban ngành trong và ngoài quân đội ở một số nơi chưa được thường xuyên, chặt chẽ và đồng bộ. Khả năng tuyên truyền vận động, giáo dục, thuyết phụ, tuyên truyền, giải thích để huy động lực lượng toàn dân có nơi, có lúc chưa tốt nên việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong CTDV còn hạn chế nhất là đối với đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Kiến thức, năng lực, tác phong công tác của lực lượng làm CTDV có lúc, có nơi chưa sáng tạo, đôi khi còn rập khuân, máy móc, đặc biệt là trình độ hiểu biết về phong tục tập quán, tiếng dân tộc của bộ đội còn hạn chế nên khả năng thuyết phục để dân hiểu, dân tin, dân làm theo có lúc chưa đạt được kết quả mong muốn. Chưa tạo được sự chuyển biến cơ bản vững chắc trong chấp hành kỷ luật quân dân, cá biệt còn để xảy ra những vụ việc nghiêm trọng ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với quân đội.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ngờ, các thế lực thù không ngừng chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”. Các thế lực phản động quốc tế lợi dụng sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tộc người để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Do vậy, CTDV cũng cần phải không ngừng đổi mới để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngày 3-6-2013, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 25 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới”. Đây là tiền đề quan trọng để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả CTDV, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, quân đội với nhân dân.

Để CTDV phát huy cao nhất hiệu quả, củng cố bền chặt mối quan hệ quân - dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đập tan mọi âm mưu, luận điệu xuyên tạc chống phá của kẻ thù thì các cấp ủy, chỉ huy các cơ quan đơn vị trong toàn quân cần quán triệt sâu sắc, đầy đủ vị trí, vai trò của công dân vận cũng như các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị và của Quân ủy Trung ương về CTDV trong tình hình mới, tiếp tục tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sỹ, trước hết là cán bộ chủ trì các đơn vị trong toàn quân về tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường và đổi mới CTDV phù hợp đặc điểm tình hình của đất nước và sự phát triển của quân đội. Chú trọng vào đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động nhân dân nhất là đồng bào dân tộc, đồng bào có đạo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế các vùng miền, làm cho nhân dân nhận thức đúng và chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quân - dân. Phương pháp dân vận là phải “khéo”, phải thể hiện được tính khoa học, tính đảng, vừa phải thể hiện nghệ thuật tác động vào con người. Do vậy, phải có cách tiếp cận và làm việc phù hợp, phải biết tin và dựa vào dân, biết khuyến khích, động viên phát huy ưu điểm của quần chúng nhân dân. Tác phong CTDV đòi hỏi phải gần dân, sát dân, thực hiện phong cách dân vận của Bác Hồ, đó là “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói tay lam”[4]. Thực hiện khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đảng và Nhà nước thường xuyên đề cập. Có như vậy, CTDV mới thuyết phục được lòng dân, làm cho nhân dân hiểu, dân tin và chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Làm cho quần chúng nhân dân có sức đề kháng miễn dịch với sự dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo, kích động, tuyên truyền, mị dân gây mất đoàn kết quân - dân.

Gắn CTDVvới thực hiện 3 chức năng của Quân đội: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, gắn thực hiện tốt dân chủ trong các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy và các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân. Tiếp tục đầu tư hợp lý về lực lượng và điều kiện cơ sở vật chất cho CTDV. Tập trung nâng cao trình độ và khả năng tiến hành CTDV của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì… Từ  thực tế, cần quán triệt sâu sắc hơn vị trí, vai trò CTDV trong tình hình mới, phát huy những kết quả đã đạt được làm động lực thúc đẩy sự phát triển quân đội ta ngày càng hùng mạnh, thực sự là lực lượng chính trị trung thành, là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng Cộng sản Việt Nam, là quân đội nhân dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


TS Nguyễn Dân Quốc -Hoàng Mạnh Cường
Trường sĩ quan Lục quân 2 - Bộ Quốc phòng


[1] Hồ Chí Minh, TT, Nxb CTQG, t.5,  H.2000, tr.700. [2] Sđd, t.6, tr.525

[3] Sđd, t.5, tr.444. [4] Sđd, t.5, tr.699

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất