Tầm quan trọng và mối quan hệ biện chứng giữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đảng không phải chỉ đại biểu lợi ích của đảng viên, mà đại biểu lợi ích của toàn giai cấp công nhân, toàn thể dân tộc và loài người”(1). Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là tiền đề quan trọng chi phối tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị; đồng thời, hiệu lực, hiệu quả hoạt động các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị là minh chứng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, là thước đo năng lực, uy tín, vai trò, vị thế của Đảng cầm quyền. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng thể hiện qua hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Từ nhận thức sâu sắc đó, Đại hội XIII của Đảng đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.
Với vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục, xuyên suốt các thời kỳ cách mạng. Chỉ tính riêng 10 năm gần đây, Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng và tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Đại hội XIII của Đảng, từ chủ đề, bài học kinh nghiệm, đến quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ trọng tâm đều nhấn mạnh đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo nên một chỉnh thể sâu sắc và toàn diện hơn.
Xét về cả phương diện lý luận và thực tiễn, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt, tạo động lực thúc đẩy xây dựng hệ thống chính trị; đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả tạo cơ sở vững chắc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh giúp Đảng có mối quan hệ mật thiết với Nhân dân, nhân lên sức mạnh của toàn Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, khát vọng phát triển vì một Việt Nam hùng cường. Từ đó, có thể khẳng định, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là yêu cầu quan trọng hàng đầu, là đòi hỏi tất yếu trong tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tính đồng bộ, sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Những dấu mốc quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
Năm 1939, trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Đảng đã tiến hành sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng về tư tưởng và tổ chức. Khi đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích”, xác định mục tiêu, phương châm: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”(2). Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng chỉ đạo chấn chỉnh những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ cương vị cao trong bộ máy chính quyền non trẻ. Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng”, ngày 17-10-1945, Người đã phê phán, răn đe, cảnh tỉnh một số căn bệnh của cán bộ nắm chức vụ, quyền hạn trong bộ máy chính quyền các cấp, như: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo… Đặc biệt, tháng 10-1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, lần đầu tiên Người dùng cụm từ “việc chỉnh đốn Đảng”, xác định 12 chuẩn mực về tư cách của Đảng chân chính cách mạng, định danh, nhắc nhở: “Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều ấy chớ quên điều nào”(3); xác định phận sự của người đảng viên và cán bộ là: “1. Trọng lợi ích của Đảng hơn hết… lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài”(4); phải rèn luyện đạo đức cách mạng - nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Về tự phê bình và phê bình, Người chỉ rõ: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt…”(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiều thứ bệnh, như chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, bệnh hủ hóa,... Người khẳng định: “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”(6); vì vậy, Người yêu cầu trong chỉnh đốn Đảng phải kiên quyết chống lại “bệnh cá nhân”. Tháng 5-1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản”(7).
Năm 1961, Đảng ta mở cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân, mục đích là xây dựng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động tinh thần làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa, hiểu rõ nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm trong giai đoạn mới, phê phán chủ nghĩa cá nhân, tham ô lãng phí, tác phong quan liêu mệnh lệnh, bảo thủ rụt rè. Sau đó, Bộ Chính trị tiếp tục có chỉ thị về cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân năm 1965 nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động, trên cơ sở nhận thức rõ tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu của cách mạng mà nâng cao phẩm chất và đạo đức cách mạng, phê phán những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Sau khi đất nước thống nhất, Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thể hiện trên ba nội dung lớn: 1- Tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng. 2- Phát huy dân chủ trong Đảng, tự phê bình và phê bình thường xuyên, nghiêm túc. 3- Chú trọng rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân và những tiêu cực, thoái hóa trong Đảng. Từ các Hội nghị Trung ương 6, Trung ương 7 (khóa VI) năm 1989, Đảng ta đã có chủ trương, nghị quyết nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991). Hội nghị Trung ương 3 (tháng 6-1992) đã ban hành Nghị quyết “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; trong đó, thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm đã trở thành nguy cơ không thể xem thường, đó là: “Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa, hư hỏng…”.
Năm 1999, trong Đảng bộc lộ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999, “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Bước vào nhiệm kỳ Đại hội XI, Đảng ta thẳng thắn nhìn nhận công tác xây dựng Đảng có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Trước tình hình đó, liên tiếp 3 Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) đều ban hành các nghị quyết, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Đây là những dấu mốc quan trọng khẳng định Đảng ta luôn kiên định, kiên quyết và tập trung trí tuệ, tâm sức cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Một số giải pháp
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(8). Để thực hiện mục tiêu đó, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng. Trong đó, tập trung thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu.
Tiếp tục quán triệt, nhận thức thật sâu sắc các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo Đại hội XIII của Đảng đã đề ra; các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế… của Trung ương về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng và hệ thống chính trị, không chỉ quán triệt tư tưởng chỉ đạo, nội dung các văn bản của Đảng mà cần có sự phân tích, so sánh, liên hệ và vận dụng phù hợp với thực tế từng cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp, cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu.
Hai là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu các cấp, gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ và đánh giá cán bộ. Chủ động phát hiện nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2025-2030 và chuẩn bị cho nhiệm kỳ tiếp theo, bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, bảo đảm số lượng và cơ cấu hợp lý. Luân chuyển cán bộ phải phù hợp với chức danh quy hoạch; bảo đảm cân đối, hài hòa giữa luân chuyển cán bộ với phát triển nguồn cán bộ tại chỗ; luân chuyển ngang và dọc, luân chuyển cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội sang các lĩnh vực khác, và ngược lại. Tăng cường cán bộ có bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực cho địa bàn trọng điểm, lĩnh vực khó khăn, phức tạp; khắc phục tình trạng khép kín trong công tác cán bộ. Đánh giá cán bộ công tâm, khách quan, có tiêu chí rõ ràng và thông qua sản phẩm cụ thể; gắn việc đánh giá cá nhân với đánh giá tập thể, với kết quả thực tế thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Kịp thời cho từ chức, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung.
Ba là, tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, thống nhất, hiệu quả.
Kịp thời cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương của Đảng; rà soát sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế, hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch. Bổ sung, hoàn thiện toàn diện hơn các thể chế, thiết chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn giữa “xây” và “chống”; giữa xây dựng đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân; phòng, chống, ngăn ngừa và đặc trị các loại “bệnh tật” phát sinh trong Đảng và hệ thống chính trị; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp ủy, chính quyền các cấp, bảo đảm tốt mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước hoặc buông lỏng lãnh đạo.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kết hợp phòng ngừa với xử lý vi phạm kỷ luật. Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo hướng chặt chẽ, bài bản, khoa học hơn; trong đó, tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm, phòng ngừa, ngăn chặn từ xa khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Tăng cường kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực, có nhiều khiếu kiện kéo dài. Tăng cường kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, bảo vệ pháp luật có bản lĩnh vững vàng, liêm chính, trung thực, có dũng khí đấu tranh, có kiến thức, kỹ năng chuyên sâu.
Năm là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và báo chí. Hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Sớm cụ thể hóa những quy định của Đảng, đồng thời thể chế hóa, hoàn thiện các quy định về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và quy định về kiểm soát quyền lực công khai, minh bạch, rõ ràng để mỗi người dân đều có thể giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải tăng cường trách nhiệm giải trình, thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về tiếp, đối thoại với công dân; tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo giải quyết các vấn đề nhân dân phản ánh, khiếu kiện.
Bước vào thời kỳ mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tăng cường đoàn kết, chung sức, đồng lòng chăm lo thế nước, vun đắp lòng dân, “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(9), dẫn dắt công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta “trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(10).
————-
(1), (3), (4), (5), (6), (7), (9) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG-ST, H.2011, tập 6, tr.290; tập 5, tr.290; tập 5, tr.290; tập 5, tr.272; tập 5, tr.295; tập 7, tr.415; tập 15, tr.612. (2) Văn kiện Đảng toàn tập, NXB CTQG, H.2000, tập 6, tr.624. (8) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB. CTQG-ST, H.2021, tập I, tr.111-112.
Nguyễn Quang Dương
UVTƯ Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương