1. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - mục tiêu, yêu cầu tất yếu trong tình hình mới
Công tác cán bộ nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng luôn giữ vị trí hệ trọng trong hệ thống chính trị của mỗi quốc gia, vì thế việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ở mỗi thời kỳ cách mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển, bền vững của đất nước. Thực tế cho thấy, cán bộ là những người đem chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, cán bộ là người phải nắm rõ tình hình thực tiễn và nắm được yêu cầu, nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân để báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để từ đó xây dựng chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp.
Trong những năm qua, Đảng luôn chú trọng đến công tác cán bộ và nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Nghị quyết 26-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”[1]. Để làm rõ hơn nhiệm vụ quan trọng của công tác cán bộ trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Công tác cán bộ là “then chốt của then chốt””[2]. Hiện nay, trước yêu cầu, nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi Đảng phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”[3].
Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đang tích cực chuyển mình hội nhập quốc tế cũng chính là lúc chuẩn bị cho công tác chuyển giao giữa các thế hệ cán bộ. Vì thế, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách chuẩn bị cho sự chuyển giao phù hợp với tình hình mới. Thực tiễn đòi hỏi, người cán bộ làm việc trong tình hình mới phải đề cao tinh thần dân tộc, yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân. Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII, Đảng ta nhấn mạnh: “Thời gian tới cũng là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hoà bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau”[4]. Vì thế, Đảng ta chỉ ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời gian tới: “bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”[5]. Đại hội XIII đề ra quan điểm chỉ đạo: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[6].
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nêu ra quan điểm: “… nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[7]. Như vậy, việc quán triệt và triển khai Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác cán bộ. Đặc biệt, trong tình hình mới, với những yêu cầu đặt ra của thực tiễn nên việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là yêu cầu tất yếu bởi:
Trước đây, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn dò cán bộ ra nước ngoài công tác phải luôn đề cao tinh thần dân tộc: “Các đồng chí phải đem toàn tinh thần và nghị lực của thanh niên yêu nước mà chịu đựng, phấn đấu, khắc phục mọi sự gian nan, để tranh lấy thắng lợi”[8]. Đồng thời, Người cũng chỉ ra mục đích của việc đào tạo đội ngũ cán bộ chính là đào tạo ra nguồn nhân lực kế cận cho các thế hệ cách mạng: “Mục đích giáo dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới”[9]. Như vậy, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ làm việc trong hoàn cảnh nào cũng phải đề cao tinh thần dân tộc, đó là luôn phụng sự Tổ quốc và vì nhân dân mà phục vụ.
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, người cán bộ phải không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao năng lực chuyên môn để có phông kiến thức rộng về văn hóa, lịch sử của mỗi quốc gia,… thông thạo ngoại ngữ, kỹ năng tin học, ứng dụng nền tảng số và nắm vững pháp luật quốc tế. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Mỗi người phải biết một nghề để sinh hoạt. Riêng về cán bộ, ai lãnh đạo trong ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn về ngành ấy”[10]. Trong tình hình mới, Đảng ta luôn chú trọng đến năng lực chuyên môn của cán bộ. Đảng xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn: “Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới”[11]; “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”[12]. Đồng thời, người cán bộ phải “không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên”[13]. Từ đó, cán bộ sẽ tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, đấu tranh phản bác lại những quan điểm sai trái, vu cáo nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu tình hình mới, Đảng cần phải có đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, hết lòng vì Tổ quốc, vì Đảng và vì Nhân dân. Trong Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII, Đảng ta cũng khẳng định: “giữa đức và tài, trong đó đức là gốc”[14]. Tại Đại hội XIII, Đảng đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng, nâng cao giáo dục phẩm chất đạo đức của cán bộ cách mạng trong tình hình mới: “Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng”[15].
2. Một số kết quả đạt được công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời gian qua
Với sự nỗ lực không ngừng của cấp ủy đảng các cấp, trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng có những hướng đi đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra và đạt được một số kết quả quan trọng, như sau:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được coi trọng, bước đầu gắn với công tác quy hoạch và bố trí, sử dụng cán bộ: “Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ và đạt một số kết quả quan trọng; về tổng thể, đội ngũ cán bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Ban Chấp hành Trung ương đã chú trọng lãnh đạo nghiên cứu, tổng kết thực tiễn làm cơ sở ban hành nghị quyết về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ và kết luận về phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, phù hợp với tình hình và yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới”[16]. Việc đánh giá công tác cán bộ có nhiều đổi mới, đạt được kết quả quan trọng, là cơ sở để nghiên cứu, ban hành những văn bản quy định về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII của Đảng nhấn mạnh: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới được quan tâm, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ”[17]. Tiếp nối thành tựu đó, với sự nỗ lực vượt bậc, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới, nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ các cấp, gắn với tiêu chuẩn chức danh và quy hoạch cán bộ được quan tâm, chú trọng và đầu tư tương xứng”[18].
Do nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên số lượng cán bộ nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý nhà nước,… tăng lên; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ bản được chuẩn hóa theo trình độ chức danh: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị được đổi mới cả về nội dung và phương pháp; tăng cường quản lý, kỷ luật trong giảng dạy, học tập; chất lượng đào tạo bồi dưỡng được nâng lên; từng bước khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị, dạy và học hình thức”[19]; “Tính từ đầu nhiệm kỳ đến ngày 30-9-2020, Trung ương đã tổ chức 3 lớp cập nhật kiến thức mới cho các đồng chí ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, 5 lớp bồi dưỡng cho 222 đồng chí diện quy hoạch cán bộ cấp chiến lược khóa XIII và có nhiều đổi mới so với nhiệm kỳ trước; tổ chức 258 đoàn, với 5.570 cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Các cấp ủy chỉ đạo mở 6.582 lớp đào tạo, bồi dưỡng cho 590.601 lượt cán bộ, đảng viên về lý luận chính trị và chuyên môn, nghiệp vụ; mở 40.217 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho 4.530.676 lượt học viên”[20]. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ, tiêu biểu như: Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017 về Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Quy định số 90-QĐ/TW, ngày 4-8-2017 về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (nay là Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 2-1-2020);…
Dưới sự lãnh đạo quyết liệt của Đảng, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được nâng cao về mọi mặt. Nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng có bước đổi mới; đã chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới theo tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm gần hơn, sát hơn với yêu cầu, nhiệm vụ thực tế. Chuẩn bị cho việc kiện toàn công tác cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII, Ban Tổ chức Trung ương đã phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ quan mở nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức cả về lý luận chính trị và nghiệp vụ; phối hợp với Học viện Quốc phòng tổ chức 2 lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng và An ninh đối tượng I cho 169 cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Trung ương và địa phương. Năm 2019, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức 2 lớp bí thư, 2 lớp phó bí thư cấp ủy cấp huyện; 9 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tổ chức xây dựng Đảng; 7 lớp công tác kiểm tra; 7 lớp công tác dân vận và 9 lớp công tác tuyên giáo[21]. Cùng với đó, “Chương trình bồi dưỡng chức danh thường xuyên được sửa đổi, hoàn thiện, cập nhật nhằm bảo đảm tính khoa học, thực tiễn và hiện đại. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã chủ động, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương để thống nhất nội dung, chuyên đề bài giảng. Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên đa dạng, phong phú, là những chuyên gia hàng đầu về lý luận của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các chuyên gia giàu kinh nghiệm thực tiễn”[22].
Phương thức đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ được mở rộng, kết hợp đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước với nghiên cứu, học tập ở nước ngoài thông qua Đề án 165 của Bộ Chính trị, Đề án 322 của Thủ tướng Chính phủ,… Tính đến năm 2019, Đề án 165 “đã tổ chức được 14 đoàn bồi dưỡng ngắn hạn, 7 đoàn trung hạn, 3 đoàn hợp tác với Nhật Bản (đạt 100% chỉ tiêu), 37/46 đoàn phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương. Đối với công tác bồi dưỡng ngoại ngữ, hoàn thành bồi dưỡng tiếng Anh trong nước cho 156 cán bộ, trong đó 88 học viên đạt trình độ IELTS từ 5.0 trở lên; các lớp bồi dưỡng nâng cao tiếng Trung Quốc, Lào và Căm-pu-chia thực hiện tốt theo khung chương trình đào tạo”[23].
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn có một số hạn chế cần phải được nghiên cứu, khắc phục như: Việc xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ chưa thực sự gắn kết với yêu cầu cần thiết của công việc. Nội dung chương trình, giáo trình và việc quản lý đào tạo, bồi dưỡng chưa đồng bộ; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn thiếu tính chiến lược, dài hạn, chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch, sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp; nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ còn chậm đổi mới, chưa kịp thời bổ sung nội dung mới, phù hợp với sự đòi hỏi của thực tiễn; việc thực hiện quy định về chế độ học tập, bồi dưỡng hằng năm đối với cán bộ chưa thành nề nếp, tình trạng ngại học lý luận chính trị, ngại học tập trung khá phổ biến,…; quy mô đào tạo được mở rộng nhưng chưa gắn với nâng cao chất lượng đào tạo, hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa đồng đều, thiếu liên thông, gắn kết với hệ thống giáo dục, đào tạo chung; việc sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng nhìn chung chưa hợp lý, hiệu quả còn thấp; bên cạnh đó, số cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước khá nhiều, những chuyên ngành đào tạo chưa phù hợp với vị trí, yêu cầu công tác, chưa gắn với vị trí việc làm dẫn đến lãng phí nguồn lực tài chính, nhân lực và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ.
3. Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới
Để quán triệt tinh thần Đại hội XIII của Đảng vào nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, có kinh nghiệm và hết lòng phục vụ nhân dân đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, trong thời gian tới, cần tập trung nghiên cứu, triển khai thực hiện hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, chủ động xây dựng hệ thống chiến lược về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là quá trình diễn ra thường xuyên, liên tục để đào tạo ra đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, phục vụ nhân dân, hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước giao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Đảng cần xây dựng chiến lược đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ. Xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của chiến lược, trong đó xác định việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ vừa là động lực cho phát triển đất nước, là cơ sở, tiền đề để phát hiện nguồn cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, trọng dụng cán bộ sau này. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, chúng ta cần xây dựng và thực hiện chính sách giáo dục và đào tạo phù hợp, “Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về giáo dục và đào tạo ở khu vực, bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế”[24]; “Xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”[25]. Đồng thời, việc xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải dựa trên định hướng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hoá. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[26].
Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ là nhằm đạt mục tiêu tăng cường chất lượng công chức và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đối với các loại đối tượng cán bộ.
Việc đổi mới chương trình, nội dung đào tạo cán bộ cần chú trọng đến việc đào tạo lý luận chính trị, bảo đảm sự liên thông nội dung từ thấp đến cao (từ sơ cấp đến trung cấp, đến cao cấp lý luận chính trị). Đặc biệt, xây dựng một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Chú trọng phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, nhất là cán bộ đã qua thử thách, thực tiễn, có thành tích nổi bật. Xây dựng các chương trình bồi dưỡng chuyên biệt ở trong và ngoài nước cho các chức danh, cấp lãnh đạo và lĩnh vực công tác; cập nhật kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng tiêu chuẩn chức danh đối với từng loại đối tượng ở từng vị trí công tác, phù hợp với tình hình mới và yêu cầu cụ thể của từng địa phương, vùng miền: “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn”[27].
Ba là, tăng cường công tác quản lý nhằm đảm bảo chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; siết chặt kỷ cương, kỷ luật học tập; khơi dậy tinh thần ham học, nhất là lý luận chính trị ở đội ngũ cán bộ. Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải đề cao trách nhiệm, sự phối hợp chặt chẽ của các bên. Ban Tổ chức Trung ương phối hợp cùng với ban, ngành của Đảng và Nhà nước tiếp tục nghiên cứu, tham mưu ban hành các nghị quyết, quy định, chỉ thị, hướng dẫn về công tác cán bộ. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có trách nhiệm tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng như xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp cho từng đối tượng học; chịu trách nhiệm về các khâu chiêu sinh theo quy định, quản lý đào tạo, bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quá trình dạy và học. Cơ quan, địa phương là cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, tổ chức sử dụng cán bộ, chịu trách nhiệm chọn, cử cán bộ đi học theo đúng quy định đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn gắn với quy hoạch, yêu cầu khung năng lực, phù hợp vị trí việc làm, nhu cầu thực tế cần đào tạo, bồi dưỡng.
Cấp ủy, tổ chức đảng, trực tiếp là lãnh đạo, người đứng đầu các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thường xuyên tự kiểm tra, thực hiện kiểm tra, giám sát công tác đào tạo, bồi dưỡng theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Tăng cường theo dõi, giám sát chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một trong những công cụ quan trọng để quản lý đào tạo, bồi dưỡng; xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng như căn cứ kiểm tra, giám sát chất lượng. Việc thực hành đánh giá cần được tiến hành định kỳ để xây dựng cơ sở dữ liệu mô tả quá trình định tính và định lượng kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ sở đào tạo với cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ để giám sát quá trình học tập, rèn luyện của học viên. Ngoài ra, cần phải siết chặt quản lý, điều chỉnh số lượng, tỷ lệ học tập trung và không tập chung một cách hợp lý. Tăng cường quản lý lớp bằng việc áp dụng khoa học công nghệ, công nghệ thông tin. Giám sát thi cử bằng camera, thực hiện thi trắc nghiệm trên máy tính. Điều chỉnh quy mô lớp học tập trung và không tập trung không quá đông học viên để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng.
Bốn là, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ tham gia đào tạo, bồi dưỡng. Đảng, Nhà nước tiếp tục rà soát, bổ sung các quy định về chế độ, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong đó có cơ chế ưu tiên, khuyến khích đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ là người sinh sống ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện khó khăn. “Chú trọng cơ cấu hợp lý, sớm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở”[28]. “Thực thi hiệu quả chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ, khơi dậy sức sáng tạo, nâng cao trách nhiệm và tôn trọng sự khác biệt trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội. Tháo gỡ các vướng mắc trong chính sách đào tạo, thu hút và sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là nhân lực có trình độ chuyên môn cao, nhà khoa học đầu ngành. Xây dựng, triển khai các chương trình cụ thể để thu hút và phát huy có hiệu quả các nhà khoa học, chuyên gia giỏi là người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài”[29].
[1] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I, tr.75.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.42.
[4] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, website: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
[5] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, website: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.35.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập II, tr.325.
[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.475.
[9] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.344.
[10] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.357.
[11] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, website: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.187.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.41.
[14] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, wesite: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr.184.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr.190-191.
[17] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, website: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr.193.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr. 170.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr.193.
[21] Hoàng Đăng Quang, Kết quả bước đầu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, 19-10-2020, website: http://www.xaydungdang.org.vn.
[22] Hoàng Đăng Quang, Kết quả bước đầu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, 19-10-2020, website: http://www.xaydungdang.org.vn.
[23] Ngọc Anh, Ban Chỉ đạo Đề án 165 họp bàn kế hoạch hoạt động năm 2020, 19-11/2019, website: http://www.xaydungdang.org.vn.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr. 140.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập I, tr. 234.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr. 330.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr. 235.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr. 242-243.
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tập II, tr. 133.
Tài liệu tham khảo
1. Ngọc Anh (2019), Ban Chỉ đạo Đề án 165 họp bàn kế hoạch hoạt động năm 2020, 19-11-2019, website: http://www.xaydungdang.org.vn.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2018), Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, II.
5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, 6, 10, 15.
6. Hoàng Đăng Quang (2020), Kết quả bước đầu đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, 19-10-2020, website: http://www.xaydungdang.org.vn.
TS. Lê Việt Trung, TS. Nguyễn Thị Thanh Mai, TS. Nguyễn Văn Tuân, CN. Ngô Xuân Thủy
Viện Khoa học tổ chức, cán bộ (Ban Tổ chức Trung ương)