Năm 2009 vừa khép lại, sự nghiệp
cách mạng Cuba tròn tuổi 50 và bước vào năm 2010 với những thành tựu to lớn qua
nửa thế kỷ chiến đấu và chiến thắng. Biết bao sự kiện đã diễn ra trong suốt 51
năm qua, nhưng thắng lợi ngày 1-1-1959 vẫn mãi mãi sống động trong ý thức và
nhận thức của nhân dân Hòn đảo Xanh anh hùng, vì đó là cột mốc khẳng định Cuba
thật sự bước vào kỷ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; là bằng chứng
không thể bác bỏ về sức sống của CNXH đã ra đời, biết tự bảo vệ và lớn mạnh
ngay tại “sân sau” của đế quốc Mỹ; là đội tiền phong mở đường cho nhân dân các
dân tộc Mỹ-La tinh đấu tranh giành độc lập, tự do, nhân phẩm và tiến bộ xã hội.
Từ năm 1959 đến nay, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và lãnh tụ Phiđen Caxtrô, nhân dân Cuba đã ghi thêm nhiều chiến công
trong bảo vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH. Mọi thủ đoạn của các thế lực thù địch,
từ thông tin xuyên tạc, cô lập ngoại giao, cấm vận thương mại, bao vây kinh tế
đến đe doạ chiến tranh và đổ bộ xâm lược vũ trang, tất thảy đều không khuất
phục nổi Cuba.
Trái lại, hơn 11 triệu nhân dân-chiến sĩ cả nước đã kiên định và sáng tạo trên
mọi mặt trận. Mặc dù còn nhiều khó khăn, hạn chế, nhưng đất nước đã có một nền
kinh tế công-nông nghiệp và dịch vụ với một số mũi nhọn đạt trình độ cao (kỹ
nghệ biến đổi gien, công nghệ sinh học, xây dựng, du lịch, sản xuất xì gà, khai
thác niken, chế biến nước hoa quả...). Từ một thuộc địa là chốn ăn chơi, tiêu
xài của tư bản độc quyền Mỹ, Cuba đã trở thành một quốc gia phát triển về mặt
xã hội với sự ưu việt vượt bậc về giáo dục, y tế, thể thao, văn hoá, nghệ
thuật... Tỷ lệ mù chữ giảm từ 30% xuống dưới 0,2% trong vòng 50 năm qua, 100%
trẻ em được đến trường và giáo dục hoàn toàn miễn phí, tuổi thọ bình quân của
người dân hiện nay đạt 77,97 so với 59 tuổi năm 1959... Với những thành tựu ấy,
hiện thực Cuba là bằng chứng sinh động khẳng định trong thế giới đương đại,
hoàn toàn có thể và cần xây dựng một xã hội khác với xã hội tư bản để đem lại
hoà bình, độc lập cho các dân tộc và cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Vượi qua “thời kỳ đặc biệt” khi Liên Xô tan
rã, từ năm 2005 đến nay, kinh tế Cuba đã vượt qua tình trạng suy thoái và bước
vào thời kỳ tăng trưởng khá. Đây là nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng bình
quân cao nhất ở khu vực Mỹ-La tinh, đặc biệt năm 2006 đạt tốc độ 12,5%. Khẩu
hiệu chỉ đạo hoạt động kinh tế của đất nước là: “Sản xuất ra nhiều nhất bằng ít
nguồn lực nhất”. Trên thực tế, sản lượng điện sản xuất tăng trên 7%/năm trong
khi nhu cầu tiêu thụ tăng 4,2%/năm nhờ áp dụng nhiều biện pháp tiết kiệm. Thu
hút đầu tư nước ngoài của Cuba tăng 25-30%/năm liên tục trong 2-3 năm qua, chủ
yếu vào các ngành công nghiệp dược phẩm, khai thác dầu khí, đánh cá, viễn
thông, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng. Ngoại thương đạt giá trị xuất
khẩu năm 2006 là 10,4 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2005; năm 2007 đạt hơn 11 tỷ
USD và năm 2008 xấp xỉ 13 tỷ USD. Chính phủ Cuba vừa thông báo tìm thấy mỏ dầu
ở ngoài khơi Vịnh Mêhicô với trữ lượng hơn 40 tỷ thùng, bằng trữ lượng của Mỹ.
Hiện tại, cả nước sản xuất 60.000 thùng dầu/ngày, đáp ứng 1/2 nhu cầu trong
nước.
Cuba hiện có quan hệ ngoại giao với 180 nước,
có 143 văn phòng đại diện ở nước ngoài tại 116 nước trên thế giới. Sự hiện diện
của Cuba
tại các tổ chức liên kết khu vực ngày càng được củng cố. Cuba có những đóng góp
to lớn cho những quốc gia đang phát triển, đang đào tạo 53.000 sinh viên đến từ
89 nước và gửi hàng trăm nghìn giáo viên, bác sĩ, nhân viên y tế tình nguyện
đến 103 quốc gia trên thế giới. Tại cuộc họp năm 2009 vừa qua, năm thứ 18 liên
tiếp, Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết “Sự cần thiết chấm dứt cấm vận kinh
tế, thương mại và tài chính của Mỹ chống Cuba” với sự ủng hộ của 187/192 nước
thành viên. Số phiếu ủng hộ trong năm nay tăng 2 phiếu so với năm ngoái, 3 nước
bỏ phiếu chống và 2 nước bỏ phiếu trắng.
Trong những năm qua, Đảng và nhân dân Cuba kiên định
con đường XHCN, năng động, sáng tạo triển khai các cải cách kinh tế, xã hội.
Trong diễn văn tại Lễ kỷ niệm 54 năm cuộc tấn công Môncađa ngày 26-7-2007, Chủ
tịch Raun Caxtrô nêu ra nhiều vấn đề cấp bách và cơ bản của đất nước, đồng
thời, kêu gọi toàn dân nghiên cứu, thảo luận, cho ý kiến. Các tầng lớp nhân dân
đã sôi nổi thảo luận trong suốt 2 tháng 9 và 10. Tháng 11, các cơ quan trung
ương tổng hợp các ý kiến và đến tháng 12, Ban Chấp hành Trung ương thông qua
báo cáo cuối cùng. Tổng cộng có 5,1 triệu người tham gia thảo luận qua nhiều
kênh khác nhau, trong đó có hơn 3,2 triệu ý kiến phát biểu tại các cuộc họp,
hơn 1,3 triệu tham luận, trong đó hơn 48% là ý kiến phê bình. Các vấn đề được
quan tâm nhiều nhất gồm: tình hình sản xuất lương thực, thực phẩm; chủ trương
thay thế nhập khẩu; nâng cao hiệu quả sản xuất, tình hình kinh tế-xã hội; nhu
cầu tiết kiệm trong tiêu dùng và sản xuất; tình trạng tham nhũng và các hành vi
phạm tội; công tác quốc phòng; công tác cán bộ... Nổi lên trên hết là ý chí
quyết tâm bảo vệ và xây dựng thành công chế độ XHCN.
Với khẩu hiệu “Trở lại với đất đai để sản xuất
nhiều hơn!”, Cuba
đã tận dụng, khai thác có hiệu quả hơn diện tích đất canh tác. Cả nước có
khoảng 6,6 triệu ha đất nông nghiệp, nhưng chỉ có 2,9 triệu ha được canh tác.
Sắc lệnh về cải cách nông nghiệp, khuyến khích nông dân sản xuất nhằm tăng sản
lượng lương thực quy định những hộ nông dân chưa có đất canh tác sẽ được nhận
nhiều nhất là 13,42 ha đất để trồng trọt và chăn nuôi trong vòng 10 năm và sẽ
được gia hạn tiếp 10 năm nữa. Những hộ nông dân canh tác có hiệu quả sẽ được
nhận tới 40,26 ha. Người sử dụng đất được hưởng lợi nhuận từ kết quả lao động
của mình, đồng thời phải nộp thuế theo quy định. Chiến lược phát triển nông
nghiệp, nông thôn mới được ban hành khuyến khích sản xuất tại mỗi địa phương,
phù hợp với đặc tính riêng của từng vùng và tận dụng tối đa hệ thống tưới tiêu;
tăng cường sản xuất lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân. Chiến lược sẽ được thực hiện từng bước, 16 huyện đã được chọn để thử
nghiệm mô hình này.
Tại phiên họp của Quốc hội ngày
11-7-2009, Chủ tịch Raun Caxtrô tuyên bố những điều chỉnh để phù hợp tình hình
kinh tế thế giới, theo đó Cuba sẽ phải đầu tư một cách hợp lý những nguồn lực
ít ỏi hiện có. Chính phủ quyết định tăng tuổi làm việc thêm 5 năm đối với người
lao động (nam 65, nữ 60), nhằm giảm thiểu tác động của tình trạng già hóa dân số
đang ngày càng tăng; tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề tiền lương
để có thể từng bước tăng lương cho người lao động; hủy bỏ các biện pháp kiểm
soát hành chính đối với quy trình sản xuất nông nghiệp trước đây; tăng giá thu
mua thịt và các sản phẩm sữa; cho phép người dân được tự do tiêu thụ sản phẩm
của mình; cho phép tư nhân trở lại tham gia
kinh doanh trong lĩnh vực vận tải
cùng với việc Chính phủ chi 2 tỷ USD để nâng cấp hệ thống giao thông công
cộng...
Chính phủ Cuba ưu tiên đầu tư phát triển công
nghệ sinh học và dược phẩm. Cuba đã xuất khẩu 38 loại dược phẩm tới 40 nước,
trong đó cung cấp miễn phí cho nhiều nước đang phát triển. Kim ngạch xuất khẩu
dược phẩm Cuba
đã vượt các mặt hàng truyền thống như xì gà, rượu rum, đường và hải sản. Ngành
chăn nuôi bò, đặc biệt là sản xuất sữa trong những tháng gần đây, ngoài việc
cung cấp sữa tươi cho các nhà máy, đã đáp ứng đủ nhu cầu sữa tươi cho nhân dân
tại 60/89 huyện của cả nước. Cuba
sẽ không phải nhập khẩu 5.600 tấn sữa bột trong năm nay. Sản lượng sữa năm 2008
đạt 403 nghìn lít; năm 2009 ước đạt gần 500 nghìn lít, so với 272 nghìn lít năm
2006.
Hội nghị Trung ương 7 vừa qua đã
quyết định lùi thời điểm tổ chức Đại hội VI của Đảng, trước dự định vào cuối
năm 2009. Nhiệm vụ của những người cộng sản và nhân dân Cuba hiện nay là, với
sự tham gia rộng rãi nhất của quần chúng, xác định CNXH mà Cuba muốn và Cuba có
thể xây dựng được trong hoàn cảnh hiện tại và tương lai của đất nước; mô hình
kinh tế vì lợi ích của nhân dân và đảm bảo sự không thể đảo ngược của thể chế
chính trị-xã hội của đất nước là gì? Trung ương sẽ chuẩn bị dự thảo các văn
kiện, sau đó xin ý kiến của toàn dân và Đại hội VI chỉ được tổ chức khi quá
trình xây dựng các văn kiện này hoàn tất. Đó sẽ là một đại hội mà đảng viên và
nhân dân cùng thảo luận mọi vấn đề của đất nước; sẽ là một đại hội thật sự cần
thiết trong tình hình hiện nay nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt và hướng
đến tương lai.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam-Cuba là di sản quý báu của hai
đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước; là tấm gương sáng về tình hữu nghị
thuỷ chung, trong sáng. Trong thời gian qua, mối quan hệ ấy tiếp tục được củng
cố và phát triển toàn diện. Lãnh đạo hai bên có nhiều nỗ lực chỉ đạo nâng cao
hiệu quả cơ chế nhằm phát huy tối đa tiềm năng hợp tác giữa hai nước, nhất là
trên các lĩnh vực mỗi nước có thế mạnh và có thể bổ sung cho nhau để cùng phát
triển như nông nghiệp, thủy sản, sản xuất hàng tiêu dùng, dầu khí, công nghệ
sinh học, xây dựng, du lịch… Cuba đề cao việc Việt Nam cung cấp gạo, triển khai
các dự án trồng lúa, ngô và đậu nành với số vốn lên tới 3,4 triệu USD, góp phần
giúp Cuba hoàn thành Chương trình an ninh lương thực. Các bộ, ngành và doanh
nghiệp hai nước tích cực triển khai hiệu quả các thỏa thuận cấp cao và các văn
kiện hợp tác song phương đã ký kết, đồng thời tìm ra những lĩnh vực và hình
thức hợp tác mới, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước, nhằm từng
bước đưa quan hệ hợp tác kinh tế-thương mại lên ngang tầm mối quan hệ chính trị
hết sức tốt đẹp giữa hai nước.
PGS, TS Nguyễn Viết Thảo