Có những con
người vĩ đại mà thời gian càng lùi xa, tầm vóc và ảnh hưởng của họ ngày càng
trở nên to lớn và sâu sắc hơn đối với đất nước và nhân quần.
Trần Nhân Tông
là một người như vậy.
Ông sinh năm
1258, chính vào năm nước ta đánh thắng lần đầu quân xâm lược Nguyên Mông, để
rồi trở thành người đứng đầu nhà nước Đại Việt đương đầu với hai cuộc chiến
tranh xâm lược tàn bạo lần thứ hai và thứ ba của Nguyên Mông đang say máu chinh
phục thế giới. Huy động và tổ chức được toàn bộ sức mạnh dân tộc, nhà nước Đại
Việt đã giành chiến thắng rực rỡ trước kẻ xâm lược hung hiểm mạnh hơn nhiều
lần, giữ vững nền độc lập, tự chủ quốc gia.
Sau chính sách
tàn bạo huỷ diệt văn hoá Việt của Minh Thành Tổ (khi quân Minh xâm lược nước ta
đầu thế kỷ XV), những gì còn để lại trong chính sử và các tài liệu khác nói về
Trần Nhân Tông không nhiều, không nổi bật. Việc không thấy hết tầm cỡ lớn lao
đích thực của Trần Nhân Tông có nhiều nguyên nhân, có thể cả yếu tố định kiến
của những người viết sử sau này, khi Nho giáo đã chiếm ưu thế, đối với vị vua
đã trở thành Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm. Đất nước ta vào thời điểm thử
thách khốc liệt mất còn khi đó có Trần Nhân Tông trên ngôi vua, sự hiện diện
của Thượng hoàng Trần Thánh Tông, hàng loạt danh tướng kiệt xuất trong và ngoài
tôn thất, tiêu biểu nhất là Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo - người thống lĩnh
quân đội. Mỗi người đều có vị trí và vai trò quan trọng làm nên chiến thắng,
nhưng Trần Nhân Tông là người lãnh đạo đích thực về chính trị và tinh thần của
cuộc chiến. Chỉ với vị trí đó, ông mới đủ tư cách đặt ra với Trần Hưng Đạo câu
hỏi hệ trọng bậc nhất trước khi quyết định chống xâm lăng: “Thế giặc to như vậy
mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng để cứu muôn
dân?”. Chỉ với vị trí đó, trước tình thế hiểm nghèo, quân dân liên tiếp thất
bại trên các mặt trận, ông mới đủ tư cách giữ vững tinh thần của toàn quân, kể
cả người thống lĩnh quân đội bằng lời nhắn nhủ: “Cối kê cựu sự quân tu ký, Hoan
Ngãi do tồn thập vạn binh”(1). Chiến thắng Nguyên Mông là chiến công của quân
dân Đại Việt, của các tướng lĩnh do Trần Hưng Đạo chỉ huy, là công tích của
Trần Nhân Tông và các vua đầu đời Trần bảo vệ vững chắc non sông Đại Việt góp
phần làm sụp đổ kẻ xâm lược thế giới. Chỉ riêng công tích đó đã là vĩ đại,
nhưng sự nghiệp của Trần Nhân Tông không chỉ có thế.
Mấy chục năm
trở lại đây, qua triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu sự nghiệp của Trần Nhân
Tông, tầm cỡ lớn lao của nhân vật lịch sử này ngày càng hiện lên đầy sức thuyết
phục.
Trần Nhân Tông
là một ông vua hiền minh. Hơn thế, là ông vua đặc biệt nhận thức sâu sắc sứ
mệnh và trách nhiệm làm vua, biết từ lợi ích của nhân dân chứ không phải quyền
lợi của triều đình mà suy tính và quyết định hành động trước nguy cơ mất còn
của đất nước. Chính vì thế ông đã quy tụ được quanh mình sức mạnh của cả dân
tộc và triều đình để đương đầu với kẻ thù xâm lược hung hiểm mạnh hơn nhiều
lần. Chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang, nhưng không say men chiến
thắng, ông hết sức coi trọng xây dựng mối quan hệ hoà giải trong nước và lân
bang, xem hoà giải trên tinh thần yêu thương là phương thức ưu tiên giải quyết
các mâu thuẫn và xung đột.
Là Phật Tổ
Thiền phái Trúc Lâm, Trần Nhân Tông có những quan điểm về thế giới và nhân sinh
với tầm khái quát cao và sâu sắc, nhưng cũng thiết thực, gần gũi với nhân quần,
được biểu đạt bằng ngôn ngữ đương thời thịnh hành của Phật giáo. Tư tưởng trung
tâm trong nhân sinh quan Trần Nhân Tông là “cư trần lạc đạo”(2), một tư tưởng
đậm bản sắc minh triết Việt về lẽ sống ở đời của bất cứ ai, trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Trần Nhân Tông thấu hiểu lẽ đời, sự sống và cái chết, ung dung, tự
tại, hoà mình, đồng cảm với đồng loại, với thiên nhiên.
Điều độc đáo và
đáng kinh ngạc là ở chỗ những phẩm chất rất khác nhau của ông vua-nhà chính trị,
nhà tư tưởng, nhà thực hành lại cùng bộc lộ và kết hợp một cách hài hoà, nhất
quán và sống động trong tư duy, lời nói và việc làm. Trần Nhân Tông là vĩ nhân
hiếm hoi trên đời, vừa có tư tưởng, nhân sinh quan, thế giới quan riêng, vừa có
quyền lực, công cụ và phương pháp để thực hành, thực hiện thành công niềm tin
và hoài bão của mình trong cuộc sống cá nhân và cộng đồng dân tộc.
Việc nghiên
cứu, tôn vinh, quảng bá tư tưởng và minh triết Trần Nhân Tông đang được tiếp
tục mở rộng không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới, chắc chắn sẽ cung cấp
những hiểu biết khoa học sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, đúng đắn hơn về ông, một giá
trị tinh thần lớn của dân tộc ta đóng góp vào những giá trị chung của nhân
loại. Tinh thần hoà giải và yêu thương mà Trần Nhân Tông theo đuổi và thực hiện
thành công, ngày nay đang dần lan toả với sức hấp dẫn ngày càng sống động đối
với thế giới đang oằn mình chịu đựng những tổn thất lớn lao gây ra bởi những
mâu thuẫn, xung đột gay gắt, những hành vi tàn phá thiên nhiên và môi trường
sống. Ngày càng có nhiều tổ chức và công trình nghiên cứu, quảng bá và tôn vinh
tư tưởng Trần Nhân Tông trong và ngoài biên giới Việt Nam. Một trong
các sự kiện nổi bật là việc ra đời Viện Trần Nhân Tông (Tran
Nhan Tong
Academy) tại Trường Đại học Ha-vớt (Harvard University) - một trong những cái nôi
của trí tuệ nước Mỹ - do một số nhà khoa học và chính trị nổi tiếng chủ trương.
Giải thưởng quốc tế Trần Nhân Tông đã được trao lần thứ nhất, năm 2012, cho hai
chính khách Mi-an-ma nổi tiếng là Tổng thống U Thên Xên và bà A-ung Xan Xu Ki,
lãnh tụ Đảng Đối lập - Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD).
Tấm gương của
Trần Nhân Tông và các vua đầu đời Trần càng đặc biệt sâu sắc đối với những
người lãnh đạo của mọi thời đại và tất cả những ai “làm công tác tổ chức”,
những người có chức năng làm việc với con người. Đó là tấm gương về quy tụ,
đoàn kết, động viên sức mạnh toàn dân tộc hướng vào mục tiêu chung bảo vệ và
xây dựng đất nước. Đặc biệt là tấm gương về việc tạo điều kiện để nhân tài phát
triển và phục vụ cộng đồng mà Trần Hưng Đạo là một trường hợp tiêu biểu(3).
Nhân dân ta tôn
vinh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là Đức Thánh Trần xuất phát từ lòng ngưỡng
mộ và biết ơn công tích lớn lao của ông đối với đất nước. Các vua Trần đã đặt
Trần Quốc Tuấn vào đúng vị trí, từ đó tạo điều kiện để ông đem hết tài trí phục
vụ đất nước và triều đình. Nhận biết đúng những phẩm chất của ông trong một
loạt những nhân vật xuất sắc khác, thân gần với ngôi vua hơn đã là việc khó.
Càng khó hơn là dám ủy thác cho ông toàn quyền thống lĩnh quân đội, tuyệt đối
tin tưởng vào ông ngay cả khi liên tiếp thất bại, khi cả những người ruột thịt
gần gũi nhất của vua cũng có kẻ phản bội. Nhưng có lẽ trong lịch sử cổ kim đông
tây các vua chúa và những người lãnh đạo hiện đại, chưa ai có đủ bản lĩnh như các
vua Trần, vào thời điểm thử thách mất còn của đất nước và vương triều, kiên
định đặt toàn bộ binh quyền vào tay một vị tướng có cha là người đã từng nổi
loạn chống triều đình, người trước khi chết vẫn không nguôi uất hận trong lời
trăng trối với con. Không chỉ trao binh quyền cho Trần Quốc Tuấn, các vua Trần
còn khéo sắp đặt, sao cho tất cả những anh tài đương thời biết bỏ qua mọi tị
hiềm, đồng tâm hiệp lực gánh vác sự nghiệp cứu nước. Bản lĩnh vô song trong
việc dùng người đã được đền đáp xứng đáng, góp phần quyết định làm nên thắng
lợi chung của dân tộc. Các vua Trần đã đặt Trần Quốc Tuấn đúng vào vị trí lịch
sử. Trần Quốc Tuấn cũng cống hiến hết mình, trọn đời trung thành với đất nước
và triều đình. Lòng trung thành của Trần Quốc Tuấn với triều đình không xuất
phát từ sự ngu trung Nho giáo mà từ khí phách, trí tuệ và phẩm chất của người
anh hùng. Một đất nước có vua như thế, có tướng lĩnh, quan quyền như thế, có
nhân dân như thế là một đất nước bất khả chiến bại. Điều này luôn luôn đúng với
mọi thời đại.
Trải qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước nhiều vinh quang nhưng cũng không ít cay đắng,
trong tâm khảm người Việt Nam đã hình thành một cảm thức chung sâu sắc và nhất
quán là vô cùng trân trọng tất cả những người có công đối với dân tộc và truyền
đời phỉ nhổ mọi hành vi bán nước vì bất cứ nguyên do gì. Tôn vinh Trần Nhân
Tông là nhận biết đầy đủ hơn và tôn vinh những giá trị chân chính được dân tộc
lưu giữ qua bao thăng trầm của lịch sử và luôn luôn là một nguồn sức mạnh to
lớn để vượt qua những thử thách hiểm nghèo nhất. Chính vì thế những giá trị
cũng đang vượt qua các biên giới quốc gia để đến với thế giới, được các dân tộc
khác cùng chia sẻ và tôn vinh.
-------------
(1) Đây là câu thơ Trần Nhân Tông nhắn nhủ với Trần Hưng Đạo và quân
dân, cũng là lời tự nhủ, được viết lên mạn thuyền ngự trên đường rút chạy vào
giai đoạn đầu của chiến tranh, khi quân ta chịu thất bại và tổn thất trên các
mặt trận. Cách lập ý chính là nhắc lại một trường hợp nguy nan nhưng cuối cùng
vẫn thắng trong cổ sử Trung Quốc để khẳng định rằng, dù có thất bại tạm thời
nhưng không việc gì phải mất tinh thần, đằng sau ta vẫn là đại quân với hàng
trăm nghìn tinh binh.
(2) Một quan điểm nhân sinh được diễn đạt rất hàm súc, ý tưởng cơ bản
là “coi niềm vui là thực hành đạo (quan niệm, lẽ sống, niềm tin, trách nhiệm mà
mình tự giác nhận biết) ở chính trong cuộc sống của nhân quần.
(3) Vấn đề thời sự của thời đại ngày nay, đang được diễn đạt không thật
chuẩn là “sử dụng người tài’ hay “trọng dụng nhân tài”. Trong chế độ phong kiến
vua là người đứng đầu, sử dụng ai vào việc gì thuộc quyền của vua, thì dùng
khái niệm “dùng” (sử dụng, trọng dụng) là có lý. Ngày nay điều này vẫn còn có
lý ở tất cả những nơi người đứng đầu là ông chủ. Còn ở đâu thực hành dân chủ,
nhất là trong phạm vi quốc gia, nhân tài (và con người nói chung) không phải là
đối tượng thuộc quyền “dùng” của ai, họ phải tự khẳng định mình, qua đó phục vụ
cộng đồng.
Bùi Đức Lại