Thế hệ hôm nay được “đi trên đường Hà Nội rực rỡ chiến công, đường thênh thang Ba Đình lịch sử, đường tấp nập Hoàn Kiếm, Đồng Xuân…” luôn thấy tự hào về một thời Thủ đô ta sục sôi đánh giặc, lấy máu xương bảo vệ, giữ vững hồn thiêng sông núi Việt Nam. Hình ảnh các thế hệ người Hà Nội vùng lên quyết tâm “sống chết với Thủ đô” đã khắc sâu trong tâm khảm người Việt Nam, trở thành biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và nể phục của bè bạn năm châu về “Thủ đô vì hoà bình”.
Khi trở thành Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Hà Nội nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung mong muốn có hòa bình để xây dựng đất nước sau bao năm chìm đắm trong đêm trường nô lệ. Song, nhân dân ta được hưởng không khí hoà bình chưa được bao lâu, thực dân Pháp được sự giúp đỡ của quân Anh đã nhanh chóng quay lại xâm lược nước ta lần 2. Trong âm mưu xâm lược của Pháp, Hà Nội - vị trí chiến lược, cơ quan đầu não của nước Việt Nam được coi là mục tiêu số 1, là “chặng cuối cùng của sự nghiệp giải phóng” như lời tuyên bố ngạo mạn của tổng chỉ huy Pháp Lơ-cléc. Vì vậy, thực dân Pháp đã không ngừng tăng cường binh lực trái phép, trang bị cho Pháp kiều, tập hợp bọn tay sai, tổ chức mạng lưới tình báo gián điệp, chuẩn bị và thực hành kế hoạch đảo chính hòng lật đổ chính quyền cách mạng Việt Nam còn non trẻ. Chúng coi việc “đánh vào đầu não” là biện pháp hữu hiệu nhất để “nhanh chóng buộc nhóm cầm quyền ở Hà Nội hiện nay phải biến đi”[1], sau đó, quân Pháp sẽ làm chủ Thành phố và một chính quyền thân Pháp sẽ được dựng lên.
Trước âm mưu, thủ đoạn của Pháp, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự giúp đỡ trực tiếp của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy và Tổng bộ Việt Minh, Thành ủy và Ủy ban hành chính kháng chiến Hà Nội đã lãnh đạo quân dân Thủ đô từng bước xây dựng lực lượng về mọi mặt, kiên trì nín nhịn suốt từ ngày quân Pháp trở lại sau Hiệp định Sơ bộ đến giữa tháng 12-1946. Với hàng chục vạn hội viên cứu quốc, nòng cốt là hơn 400 đảng viên cộng sản trong từng khu phố, nhà máy, xí nghiệp… thông qua các cuộc vận động chính trị trong quá trình xây dựng chính quyền và bảo vệ chế độ mới, các tầng lớp nhân dân Thủ đô ngày càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ và trách nhiệm của người làm chủ Thủ đô của nước Việt Nam mới. Suốt 9 tháng, Đảng ta kiên trì duy trì kế hoạch hoà hoãn, nhân nhượng không manh động, không mắc mưu khiêu khích của quân Pháp, các tầng lớp nhân dân đều thể hiện ý thức kỷ luật rất cao, bình tĩnh đợi lệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho Chính phủ đấu tranh ngoại giao, nhằm “gạn”, “chắt” những khả năng hòa hoãn nhỏ nhất trong quan hệ Pháp - Việt để cứu vãn hoà bình, không muốn chiến tranh tái diễn. Song, chúng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng ngoan cố, quyết tâm thực hiện âm mưu đánh chiếm Thủ đô. Tình thế bắt buộc, quân và dân Hà Nội không còn con đường nào khác, đi tới một sự lựa chọn duy nhất để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ Thủ đô: Đứng lên cầm súng cùng đồng bào cả nước chiến đấu tự vệ với tinh thần quyết tử để Tổ quốc quyết sinh! Vì vậy, trước những hành động khiêu khích ngày càng trắng trợn của quân Pháp diễn ra hằng ngày trên đường phố, chúng nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội trong các ngày 15, 16-12-1946 như: đốt nhà thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Ngày 17-12-1946, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, đặc biệt, chúng đã gây ra vụ tàn sát nhiều đồng bào ta ở phố Hàng Bún và Yên Ninh, gây xung đột đổ máu ở cầu Long Biên, khu Cửa Đông. Đặc biệt, ngày 18-12-1946, tướng Moóc-li-e gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự về chiến đấu và giao quyền kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô ở Hà Nội cho chúng. Pháp tuyên bố nếu các yêu cầu trên không được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động thì cũng là lúc mọi tầng lớp nhân dân, già trẻ, gái trai, sẵn sàng hy sinh chiến đấu, sống chết với Thủ đô.
Trước vấn đề bức thiết, ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng khẩn cấp tại Vạn Phúc, Hà Đông do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đã quyết định chủ trương phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước; đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến chống Pháp xâm lược là kháng chiến lâu dài. Ngay đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, thể hiện mệnh lệnh của non sông đất nước, thôi thúc cả dân tộc chung sức đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng quân Pháp xâm lược: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Tiếp Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có lời kêu gọi: Tổ quốc lâm nguy! Giờ chiến đấu đã đến! Theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy hạ lệnh cho toàn thể bộ đội vệ quốc và quân dân tự vệ Trung - Nam - Bắc phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước, hy sinh đến giọt máu cuối cùng, tiêu diệt bọn thực dân Pháp. Quyết chiến!
Hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy, Hà Nội đã chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc đọ sức quy mô lớn và có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Các địa phương lân cận như: Sơn Tây, Hà Đông - hậu phương trực tiếp của Thủ đô liên tiếp bổ sung lực lượng cho Mặt trận Hà Nội. Ngay từ những ngày chiến đấu đầu tiên, trong giờ phút thử thách quyết liệt nhất, Hà Nội không chỉ có các chiến sĩ vệ quốc đoàn, tự vệ, công an xung phong trực tiếp cầm súng chiến đấu tiêu hao tiêu diệt địch, nhiều chiến sĩ xung trận đêm 19-12-1946 là những người lần đầu tiên cầm súng đối mặt với kẻ thù có truyền thống về lục quân, binh khí kỹ thuật, nhất là pháo binh, xe tăng, cơ giới mà còn có đông đảo nhân dân thành phố, từ em bé 10-12 tuổi đến cụ già, từ người dân nghèo, buôn thúng bán mẹt, công nhân, xích lô, đến nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ nhiếp ảnh… tất cả đều góp phần tiêu hao tiêu diệt địch theo khả năng và bằng phương pháp, phương tiện riêng của mình. Phục vụ lực lượng vũ trang chiến đấu là một đội ngũ hậu cần hùng hậu, bao gồm đông đủ chị em phụ nữ mọi thành phần xã hội Thủ đô. Những người dân bình thường, những chiến sĩ vô danh không mặc áo lính đã bảo đảm đường dây liên lạc, tiếp tế, sát cánh cùng bộ đội và tự vệ để ngày đêm chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Cũng chính những chiến sĩ vô danh ấy đã giữ bí mật, bảo đảm an toàn và có người đã anh dũng hy sinh thầm lặng, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc rút lui thần kỳ của Trung đoàn Thủ đô ra khỏi thành phố sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Nhiều cá nhân và gia đình đã tự nguyện biến ngôi nhà thân thương mang nặng dấu ấn tuổi thơ của mình cùng với mọi đồ vật trong nhà, từ sập gụ, tủ chè đến bàn ghế làm chướng ngại vật, ngăn cản địch trên đường phố, những ụ súng chiến đấu của bộ đội và tự vệ.
Dự kiến thời gian phù hợp và chỉ đạo đúng hướng, đúng lúc, đồng bộ, toàn diện, chu đáo và bí mật, bộ máy điều hành các cấp, từ Bộ Tổng chỉ huy đến đơn vị cơ sở đã không bị động chờ đợi mà chủ động chuẩn bị, tiến công trước quân địch trong toàn thành phố ngay khi có lệnh. Bộ Thống soái tối cao đã xây dựng kế hoạch tác chiến, chỉ đạo cách đánh, điều chỉnh chiến trường nhất là việc Bộ Tổng chỉ huy sớm quyết định việc mở rộng địa bàn hậu phương Mặt trận Hà Nội về phía Hà Đông - Sơn Tây, điều động lực lượng tăng viện, giải quyết vấn đề hậu cần tiếp tế, động viên các chiến trường cả nước chia lửa với Thủ đô... đã được cấp chiến lược đặc biệt quan tâm chỉ đạo phối hợp trong suốt mấy tháng đầu kháng chiến toàn quốc. Quân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đẩy mạnh hoạt động theo tinh thần chỉ thị ngày 16-12-1946 của Thường vụ Trung ương. Các thành phố Huế, Đà Nẵng và nhất là Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương ra sức tiêu hao, kìm chân và căng kéo địch, hạn chế tăng viện của địch cho mặt trận Hà Nội. Lực lượng vũ trang cả ba Liên khu của Mặt trận Hà Nội, đặc biệt là Liên khu 1, đã kiên cường đương đầu với địch suốt hai tháng ròng, nêu một tấm gương chiến đấu tiêu biểu cho cả nước, xứng đáng với vị trí chiến lược quan trọng nhất, địa bàn trọng điểm của cuộc tổng giao chiến. Sự chỉ đạo chỉ huy tập trung với quyết tâm giành giật từng đường phố, từng căn nhà trong cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt suốt hai tháng ở Thủ đô, quân và dân Hà Nội đã tiêu hao và kìm chân địch, hoàn thành vượt yêu cầu nhiệm vụ mà cả nước đã ủy thác cho chiến trường trọng điểm mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc.
Cuộc chiến không cân sức giam chân địch trong lòng Hà Nội diễn ra suốt hai tháng chiến đấu liên tục: Một người, một tổ cũng đánh, một quả lựu đạn, một chai xăng krếp, một bom ba càng cũng tiến công địch, tạo thêm điều kiện để bộ đội bám trụ dài ngày và đánh thắng địch ngay từ đêm đầu trên địa bàn Thủ đô, đánh bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, giành thế chủ động “đi đến một hành động quân sự nhằm… buộc đối phương phải hạ bài”[2]. Thắng lợi đã giải thích vì sao trong bản chỉ lệnh ngày 20-12-1946 sau một ngày chiến sự nổ ra ở Hà Nội và trong toàn quốc diễn ra, Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp, tướng Ê-chiên Va-luy phải kêu gọi binh lính “Các bạn hãy cùng nhau nghiến răng chịu đựng… Cuộc chiến đấu còn diễn ra ác liệt, nhưng chẳng bao lâu các bạn sẽ được tăng viện… Hãy dũng cảm lên, hỡi các chiến binh sư đoàn 9…”[3].
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô, quân và dân Hà Nội đã buộc Pháp chôn chân dài ngày trong thành phố từ (19-12-1946 đến 17-2-1947) đã làm nên kỳ tích Hà Nội 60 ngày đêm khói lửa. Trong 60 ngày đêm ấy, cơ quan lãnh đạo kháng chiến vẫn đứng chân bí mật an toàn ở vùng Chương Mỹ, sát kề Hà Nội, chỉ cách thành phố chừng 20km đường chim bay để chỉ đạo cuộc chiến đấu của nhân dân Thủ đô và từng bước đưa cơ quan đầu nào và nhân dân lên chiến khu Việt Bắc, xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Trong 60 ngày đêm chiến đấu, quân và dân Hà Nội đã phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, chủ động sáng tạo giải quyết nhiều vấn đề do thực tế chiến đấu đặt ra, như chọn cách đánh trong từng tình huống cụ thể, chọn thời cơ rút vào Liên khu 1, điều chỉnh và phát triển lực lượng, chọn thời cơ và phương thức lui quân bí mật, an toàn ra khỏi thành phố sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Hà Nội là cuộc chiến đấu có chuẩn bị từng bước vững chắc trong một thời gian dài. Thắng lợi của mặt trận Hà Nội đã có tác dụng cổ vũ rất lớn đối với các chiến trường, củng cố lòng tin vào khả năng chiến đấu và chiến thắng đối với quân dân các địa phương trong cả nước. Kết quả đó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các cấp, các địa phương chuyển toàn bộ đời sống xã hội sang thời chiến một cách chủ động, đầy tự tin tác động thuận lợi đối với nhiều chiến trường trong cả nước mà còn bước đầu phác hoạ nội dung của cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, kết hợp giữa quân sự với chính trị, binh địch vận, ngoại giao… Từ những hình thức và nội dung đó, khái niệm về chiến tranh nhân dân ngày càng được định hướng cụ thể và không ngừng phát triển cả về lý luận và thực tiễn trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.
Thắng lợi của quân dân Thủ đô trong 60 ngày đêm giam chân địch trong lòng Hà Nội, đưa cơ quan đầu não lên chiến khu Việt Bắc an toàn không chỉ thể hiện quyết tâm sắt đá bảo vệ thành quả cách mạng, cùng cả nước chung sức đồng lòng đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn mà còn chuẩn bị tâm thế, tập trung trí tuệ, hội tụ nhân tài để hơn 20 năm sau cũng vào ngày Hồ Chủ tịch ra Lời toàn quốc kháng chiến, quân dân Thủ đô tiếp tục bước vào cuộc chiến chiến đấu quyết liệt với B52 của Mỹ. Trong cuộc chiến đấu không cân sức cuối năm 1972, quân dân Hà Nội đã nén đau thương, vùng lên đánh bại siêu pháo đài bay B52 - niềm kiêu hãnh của không lực Hoà Kỳ, làm nên huyền thoại 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” lừng lẫy năm châu. Chiến thắng của Hà Nội mùa đông năm ấy - mốc son đánh dấu sức mạnh quật khởi của nhân dân Thủ đô quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh - điểm tựa vững chắc để nhân dân Việt Nam khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế và tự hào về Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Nguyễn Thị Hạ Ni
Hệ 6, Học viện chính trị (Bộ Quốc phòng)
[
1] Tuyên bố ngày 17-1-1946 của Lê-ông Pi-nông, cố vấn chính trị của Cao ủy Ác-den-li-ơ. [2] Hồi ký của Giăng Xanh-tơ-ni. [3] Dẫn theo Hồi ký của tướng Ra-un Xa-lăng, Thời báo Pa-ri 1971.