1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động tuyên truyền, giám sát về BHXH, BHYT
BHXH và BHYT là 2 chính sách trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, có tác động và ảnh hưởng lớn đến đời sống của người lao động và toàn dân. Do đó, cùng với quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực này, công tác tuyên truyền, giám sát việc thực thi pháp luật ngày càng được quan tâm và tổ chức thực hiện thường xuyên. Tầm quan trọng của hoạt động tuyên truyền, giám sát về BHXH, BHYT được thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu sau:
- Thông qua hoạt động tuyên truyền, giám sát để thúc đẩy quá trình thực thi pháp luật, đưa chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống, bảo đảm tính tuân thủ pháp luật.
- Nâng cao nhận thức, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các cấp trong việc tổ chức thực hiện luật;
- Phát hiện những bất cập cả trong cơ chế, chính sách và quá trình tổ chức thực thi pháp luật để đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền, giám sát về BHXH, BHYT trong thời gian vừa qua còn nhiều bất cập, thể hiện:
- Hiệu quả công tác tuyên truyền còn hạn chế, chưa đạt như mong muốn, việc mở rộng diện bao phủ còn chậm, đặc biệt việc phát triển BHXH tự nguyện đối với người lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn và phi chính thức chưa được quan tâm đúng mức. Hình thức, phương pháp tuyên truyền tuy có đổi mới nhưng còn dàn trải, chưa có những chuyên đề tuyên truyền riêng và ưu tiên tiếp cận đối với những nhóm lao động tiềm năng như người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 1 đến dưới 3 tháng;
- Công tác tuyên truyền chưa đóng góp nhiều cho việc phát triển các loại hình BHYT, BHXH tự nguyện, để huy động xã hội tham gia;
- Chưa có mạng lưới cộng tác viên sâu rộng đến các cộng đồng dân cư; chưa xác định nhóm đối tượng cần tập trung trong tuyên truyền, vận động, các đại lý BHYT, BHXH chưa gắn nhiều với địa bàn;
- Chưa khai thác, phát huy mạnh mẽ được vai trò của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên, cơ quan thông tấn, báo chí, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT, BHXH vì vậy tỷ lệ người tham gia còn ít;
- Còn tình trạng nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các chính sách, chế độ BHXH, BHYT. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan BHXH ở địa phương trong việc thực hiện chế độ BHXH chưa chặt chẽ.
Nhìn chung, có thể nói hiệu quả tuyên truyền chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra của Đảng và Nhà nước về mục tiêu hướng tới BHYT toàn dân và mở rộng BHXH để bảo đảm an sinh xã hội. Chính bởi vậy, Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22-11-2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020 đã xác định tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHXH, BHYT là nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để thực hiện mục tiêu bao phủ toàn dân. Vì vậy, Trung ương 7 đã thảo luận và ra Nghị quyết về cải cách chính sách BHXH, chính sách cải cách tiền lương.
2. Mục đích của công tác tuyên truyền về BHXH, BHYT trong giai đoạn mới
Qua thực tiễn giám sát về BHXH, BHYT, các kiến nghị giám sát luôn nhấn mạnh việc nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHYT, BHXH. Do đó, trong giai đoạn tới, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền sâu rộng, đổi mới mạnh mẽ cách thức và nội dung tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT theo tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22-11-2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020 “Tăng cường lãnh đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHYT, BHXH, để cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ vai trò, ý nghĩa của BHYT, BHXH trong hệ thống an sinh xã hội; quyền lợi và nghĩa vụ của người dân khi tham gia BHYT, BHXH. Phát hiện và biểu dương kịp thời các địa phương, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện tốt, đồng thời phê phán, xử lý nghiêm vi phạm. Chính quyền, cơ quan BHXH và các tổ chức đoàn thể cần chú ý làm tốt công tác vận động nhân dân tham gia BHYT, BHXH”.
- Tăng cường sự quan tâm của toàn xã hội, nhất là cấp uỷ, chính quyền địa phương và tổ chức đoàn thể các cấp trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách BHXH, BHYT tại địa phương, nhất là việc chỉ đạo phát triển đối tượng tham gia và công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH tự nguyện.
- Có hình thức tuyên truyền về BHXH, BHYT phù hợp với các tầng lớp nhân dân khác nhau để người lao động và nhân dân hiểu rõ về mục đích, ý nghĩa, quyền lợi khi tham gia BHXH, BHYT; về chính sách, quy trình thực hiện BHXH, BHYT.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH, BHYT phải gắn chặt với mục tiêu phát triển đối tượng, coi đó như là một chỉ tiêu về lĩnh vực xã hội. Để làm được điều này, cần xây dựng nội dung tuyên truyền, đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên thực sự có chất lượng để nâng cao hiệu quả các cuộc tuyên truyền tại cơ sở, giúp người dân hiểu được tính ưu việt của chính sách BHXH, BHYT từ đó tích cực tham gia.
- Một trong những nhiệm vụ quan trọng là, cơ quan thông tấn, báo chí có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giám sát pháp luật và động viên nhân dân chấp hành đúng pháp luật, nêu gương những điển hình tốt và phê phán những lệch lạc, sai phạm.
Do các yếu tố đặc thù nói trên, nên việc tuyên truyền về chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT đòi hỏi các phòng viên, biên tập viên phải thực sự am hiểu sâu sắc về chính sách, pháp luật thì việc tuyên truyền mới đạt hiệu quả.
3. Tính ưu việt của Luật BHXH, Luật BHYT
3.1. Tính ưu việt của Luật BHXH
Luật BHXH năm 2014 đã khắc phục cơ bản những hạn chế, bất cập về chính sách, chế độ BHXH thực thi trong thời gian qua, tiếp cận một cách đầy đủ hơn BHXH của khu vực và thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế và đáp ứng tốt hơn quyền được tham gia và quyền được thụ hưởng BHXH của người dân vì mục tiêu an sinh xã hội của mọi công dân theo Hiến định. Điều đó được thể hiện:
a. Mở rộng độ bao phủ BHXH theo nhiều hướng tiếp cận nhằm gia tăng hơn nữa tỷ lệ số người tham gia BHXH theo các loại hình BHXH một cách ổn định và bền vững.
Bổ sung thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: (i) Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới ba tháng (Điểm b khoản 1 Điều 2); (ii) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn (Điểm i khoản 1 Điều 2). Mở rộng và tạo điều kiện hơn nữa số người tham gia BHXH tự nguyện bằng việc: (i) Không khống chế tuổi trần của người tham gia BHXH tự nguyện (Khoản 4 Điều 2); và (ii) Có chính sách hỗ trợ người dân tham gia loại hình BHXH này (Khoản 1 Điều 87). Giảm dần việc rời bỏ hệ thống BHXH của người đã tham gia bằng quy định hạn chế người được hưởng BHXH một lần đối với người không đủ điều kiện hưởng lương hưu (Khoản 1 Điều 60). Gia tăng tính tuân thủ việc tham gia BHXH của người lao động bằng nhiều biện pháp thông qua các quy định về quyền và trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tổ chức thực hiện từ Trung ương tới địa phương và các cơ quan có liên quan về BHXH (các điều trong Chương I và Chương 2) và các quy định thẩm quyền xử phạt cũng như gia tăng mức xử phạt vi phạm hành chính về BHXH ( Điều 121 và Điều 122 Chương VIII).
b. Bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người thụ hưởng trên cơ sở giảm dần sự chênh lệch về mức hưởng BHXH giữa các đối tượng tham gia BHXH thuộc khu vực tư và khu vực nhà nước; giữa người lao động khu vực dân sự và lực lượng vũ trang theo hướng tiếp cận tiến dần tới sự công bằng về mức thụ hưởng cho mọi đối tượng tham gia BHXH theo một lộ trình phù hợp đáp ứng đầy đủ nguyên tắc mức hưởng BHXH trên cơ sở mức đóng và thời gian đóng BHXH của người lao động.
Theo đó một số quy định được sửa đổi, hoàn thiện như sau:
- Điều chỉnh mức tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp một lần đối với người tham gia BHXH của khu vực công và lực lượng vũ trang theo một lộ trình tiến tới mức bình quân này sẽ được tính như nhau đối với mọi đối tượng (Khoản 1 Điều 62).
- Điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH đối với người tham gia BHXH của khu vực công và lực lượng vũ trang để có cùng một cách tính như nhau cho mọi đối tượng tham gia BHXH (Khoản 1 Điều 63).
- Không quy định việc tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng đối với người chấp hành án phạt tù nhưng không được hưởng án treo (Điều 64).
c. Thể hiện rõ các nguyên tắc bình đẳng giới trong các quy định của Luật BHXH. Theo đó một số quy định được thể hiện theo hướng:
- Điều chỉnh để bảo đảm tốt hơn quyền thụ hưởng BHXH trong chế độ thai sản kể cả lao động nam và nữ (Các quy định trong Mục 2 chế độ thai sản tại Chương III).
- Điều chỉnh cách tính mức hưởng lương hưu của lao động nữ theo hướng giảm dần sự chênh lệch về mức hưởng giữa nam và nữ khi có cùng điều kiện tham gia như nhau (Khoản 4 Điều 56).
d. Cải thiện tốt hơn tính bền vững của Quỹ BHXH trong dài hạn với nhiều giải pháp khả thi theo lộ trình phù hợp. Theo đó:
- Quy định gia tăng độ bao phủ và độ tuân thủ người tham gia trong hệ thống BHXH (các quy định điểm 1 nêu trên).
- Quán triệt nguyên tắc đóng hưởng khi xây dưng các chế độ BHXH (các quy định tại điểm 2 và 3 nêu trên).
- Tăng mức đóng BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động so với trước bằng việc điều chỉnh tiền lương tháng đóng BHXH của người lao động ngoài khu vực công kể từ ngày 1-1-2018 trở đi (Khoản 2 Điều 89).
- Điều chỉnh một bước theo hướng tích cực hơn về hình thức đầu tư Quỹ BHXH (Điều 92) và về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản lý BHXH (Điều 95).
e. Phân định một cách minh bạch và cụ thể hơn về quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan tới BHXH nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động hoạch định chính sách, tổ chức thực hiện, giám sát, thanh kiểm tra BHXH bảo đảm quyền lợi tốt nhất đối với người lao động tham gia BHXH theo Luật định. Theo đó:
- Quy định cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan Bộ, Hội đồng quản lý BHXH,cơ quan BHXH, người sử dụng lao động và người lao động nêu tại Chương 1, Chương 2 và Chương VI.
- Bổ sung và điều chỉnh về quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn, mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận (Điều 14).
6. Từng bước tiếp cận và luật hóa một số nội dung đáp ứng các yêu cầu của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực BHXH. Theo đó:
- Bổ sung đối tượng người lao động là người lao động nước ngoài làm việc hợp pháp tại Việt Nam được tham gia BHXH bắt buộc (Khoản 2 Điều 2).
- Quy định mới về Bảo hiểm hưu trí bổ sung mang tính chất tự nguyện trong hệ thống BHXH (Khoản 3 Điều 4).
Như vậy, Luật BHXH năm 2014 đã có những bước phát triển mới theo hướng tích cực và ngày càng hoàn thiện hơn so với các quy định trước đây và chính các điều đó vừa là cơ hội và cũng là những thách thức không nhỏ trong quá trình triển khai thực thi Luật BHXH trong thời gian tới.
3.2. Tính ưu việt của Luật BHYT
BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện để chăm sóc sức khỏe cơ bản cho nhân dân. Luật BHYT của Việt Nam, bản chất là BHYT xã hội nhằm chia sẻ rủi ro, giảm gánh nặng chi trả từ tiền túi của người bệnh và tạo nguồn lực quan trọng để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Luật BHYT quy định nguyên tắc của BHYT xã hội là bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT; mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Luật BHXH, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương cơ sở; mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi và thời gian tham gia BHYT; chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT do quỹ BHYT và người tham gia BHYT cùng chi trả.
Luật BHYT được Quốc hội khóa XII ban hành năm 2008, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong hệ thống pháp luật về BHYT là cơ sở pháp lý cao nhất về BHYT. Tính đến năm 2012, sau gần 5 năm thực hiện Luật BHYT, chúng ta đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng về BHYT, có gần 67% dân số tham gia BHYT, khẳng định chủ trương, quan điểm đúng đắn, nhất quán của Đảng, Nhà nước về chính sách BHYT và tính ưu việt của BHYT. Việt Nam đang từng bước tiếp cận với mục tiêu BHYT toàn dân, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển kinh tế và bảo đảm chính sách an sinh xã hội phù hợp xu thế chung của thế giới.
BHYT Việt Nam về bản chất là BHYT xã hội, là cơ chế tài chính chi trả trước bảo đảm để người dân khi ốm đau có nguồn tài chính chi trả, tránh bị rơi vào hoàn cảnh khó khăn. BHYT Việt Nam đang từng bước thay thế cơ chế bao cấp trong KCB bằng việc Nhà nước tăng đầu tư ngân sách để hỗ trợ cho người dân, đồng thời huy động nguồn lực từ xã hội, người dân và cộng đồng để tham gia BHYT.
Tỷ lệ dân số tham gia BHYT đã tăng nhanh, nhiều nhóm đối tượng được Nhà nước hỗ trợ kinh phí mua BHYT, người tham gia BHYT được hưởng dịch vụ KCB, kỹ thuật y tế hiện đại, chất lượng hơn, được cung ứng thuốc KCB, kể cả thuốc mới, hiệu quả giúp hàng triệu lượt người vượt qua ốm đau và các căn bệnh mãn tính, nan y, hiểm nghèo. Quỹ BHYT đang dần trở thành nguồn tài chính cơ bản phục vụ cho hoạt động của các bệnh viện, góp phần giảm mức chi trả từ tiền túi của người bệnh cho công tác chăm sóc sức khỏe. Luật BHYT của Việt Nam đã bảo đảm nguyên tắc chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT và là 1 trong các trụ cột của chính sách an sinh xã hội.
Để tiến tới BHYT toàn dân và đạt mục tiêu xây dựng nền y tế công bằng, hiệu quả và phát triển, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT (năm 2014). Luật này có nhiều nội dung đổi mới thể hiện rõ tính ưu việt của BHYT, đó là mở rộng đối tượng tham gia BHYT, mở rộng phạm vi quyền lợi BHYT và mức hưởng BHYT; mở thông tuyến KCB BHYT; quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng quỹ BHYT; quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan…
- Mở rộng đối tượng tham gia BHYT: Luật quy định bắt buộc tham gia BHYT đối với mọi đối tượng, thể hiện quyết tâm chính trị nhằm thúc đẩy thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân và đề cao tính pháp lý nhằm gắn trách nhiệm của mọi người dân tham gia BHYT, bảo đảm nguyên tắc chia sẻ của người tham gia BHYT. Theo đó:
+ Quy định một số đối tượng tham gia BHYT bắt buộc theo hộ gia đình, với cơ chế giảm dần mức đóng.
+ Bổ sung đối tượng thuộc lực lượng quân đội và công an tham gia BHYT; người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng được BHXH đóng tiền mua thẻ BHYT.
+ Bổ sung thêm đối tượng đang sinh sống tại vùng kinh tế - xã hội (KT-XH) khó khăn và đặc biệt khó khăn được ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng để mua thẻ BHYT.
- Mở rộng phạm vi quyền lợi BHYT và mức hưởng BHYT. Theo đó:
+ Bỏ quy định cùng chi trả 5% đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, đặc biệt khó khăn, người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo.
+ Bỏ quy định cùng chi trả 20% đối với thân nhân của người có công với cách mạng là cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của liệt sĩ, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ; giảm mức cùng chi trả từ 20% xuống còn 5% với thân nhân khác của người có công và người thuộc hộ gia đình cận nghèo.
+ Quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí KCB khi người bệnh có thời gian tham gia BHYT 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí KCB trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở.
+ Quy định cụ thể mức hưởng BHYT đối với các trường hợp KCB không đúng tuyến và bổ sung quy định quỹ BHYT thanh toán trong các trường hợp tự tử, tự gây thương tích, tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
+ Bổ sung quy định cơ quan BHXH chịu trách nhiệm đóng BHYT cho người đang nghỉ thai sản; bổ sung quy định trẻ em dưới 6 tuổi được quỹ BHYT chi trả điều trị lác, cận thị, tật khúc xạ của mắt; trong trường hợp trẻ đủ 72 tháng chưa đến kỳ nhập học thì thẻ BHYT có giá trị đến ngày 31-9 của năm đó.
Những quy định này nhằm giảm các gánh nặng chi phí KCB cho người tham gia BHYT và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế đối với một số đối tượng chính sách và các nhóm đối tượng yếu thế.
- Mở thông tuyến KCB BHYT để tăng: việc tiếp cận của người tham gia BHYT với dịch vụ y tế chất lượng. Theo đó:
+ Mở thông tuyến xã và huyện trên cùng địa bàn tỉnh: từ ngày 1-1-2016, người tham gia BHYT đăng ký KCB ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền KCB BHYT tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh.
+ Mở thông tuyến KCB BHYT đến tuyến tỉnh và tuyến Trung ương trong phạm vi cả nước đối với người thuộc hộ gia đình nghèo và người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại các xã đảo, huyện đảo.
+ Từ ngày 1-1-2021, Quỹ BHYT chi trả chi phí điều trị nội trú theo mức hưởng cho người tham gia BHYT khi KCB không đúng tuyến tại các cơ sở KCB tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước. Việc mở thông tuyến KCB nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người tham gia BHYT trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng.
- Quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng quỹ BHYT: Luật cho phép đến hết ngày 31-12-2020 các địa phương có phần kinh phí chưa sử dụng hết được sử dụng 20% để hỗ trợ hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật, nâng cao chất lượng KCB BHY… ; từ ngày 1-1-2021, phần kinh phí chưa sử dụng hết được hạch toán toàn bộ vào quỹ dự phòng để điều tiết chung.
Việc Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất ở cấp quốc gia nhằm tập trung nguồn lực, điều tiết chung trong phạm vi cả nước và đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu chia sẻ rủi ro giữa các đối tượng.
- Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức liên quan. Theo đó:
+ Quy định cụ thể trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Y tế trong việc quy định thống nhất giá dịch vụ, quy định gói dịch vụ y tế cơ bản. Bổ sung trách nhiệm của Bộ LĐTB&XH, GD&ĐT trong việc triển khai thực hiện BHYT và giao trách nhiệm BHXH Việt Nam trong việc kiểm tra, rà soát để tránh trùng thẻ BHYT cho các đối tượng.
+ Bổ sung quy định trách nhiệm của UBND cấp xã trong việc lập danh sách để cấp thẻ BHYT cho các đối tượng, lập danh sách đề nghị cấp thẻ BHYT cho trẻ đồng thời với việc cấp giấy khai sinh.
Như vậy, cùng với hoàn thiện chính sách, pháp luật về y tế, đầu tư nâng cao năng lực của Ngành Y tế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT có những bước tiến quan trọng, tạo cơ chế tài chính bền vững trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, tạo sự công bằng trong việc thụ hưởng phúc lợi xã hội của mọi công dân, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo.
4. Thách thức trong triển khai Luật BHXH, Luật BHYT
a. Nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động chưa thật tự giác và chủ động, tính tuân thủ pháp luật chưa cao sẽ là một trong các thách thức lớn trước những quy định mới về tăng độ bao phủ và tính tuân thủ tham gia BHXH, BHYT khi thực thi các quy định này.
- Trong 125 Điều của Luật BHXH, phần lớn các quy định này tác động trực tiếp đến các đối tượng tham gia BHXH, trong đó có hai vấn đề sẽ có tác động lớn đó là quy định về: (i) Bổ sung đối tượng người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được thực thi từ 1-1-2008; và (ii) Tiền lương tháng đóng BHXH theo chế độ tiền lương của người sử dụng lao động quyết định được đóng theo quy định của khoản 1 Điều 90 của Bộ Luật Lao động và cũng được thực thi từ 1-1-2018.
Các quy định nêu trên có ý nghĩa tích cực và nhân văn nhằm đáp ứng tốt quyền tham gia BHXH của mọi người lao động trong khu vực hưởng lương, bảo đảm tốt mức lương hưu khi người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu và góp phần cải thiện đáng kể tuổi thọ của Quỹ hưu trí trong dài hạn. Tuy nhiên một khi nhận thức của các đối tượng có tác động trực tiếp bởi các quy định này chưa đầy đủ thì sẽ luôn xẩy ra hiện tượng thiếu trung thực trong kê khai, gian lận về số lượng đối tượng tham gia BHXH theo Luật định và đóng không đúng, không đủ mức đóng theo quy định. Đây là tồn tại đã kéo dài trong một thời gian dài đặc biệt phổ biến ở khu vực ngoài nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà từ lâu các cơ quan quản lý, cơ quan tổ chức thực hiện thiếu các công cụ quản lý, kiểm soát có hiệu quả. Nếu như không có nhận thức đầy đủ, tự giác từ phía các chủ thể chịu tác động và cùng hiện thức hóa một số giải pháp liên quan tới cơ chế quản lý, cơ chế giám sát, thanh kiểm tra, đổi mới về thủ tục hồ sơ, tuyên truyền, vận động để toàn dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ.... sẽ là rào cản khi thực hiện các quy định này.
- Tỷ lệ bao phủ BHYT bình quân cả nước năm 2017 đã đạt 85,6% dân số, nhưng chủ yếu là đối tượng được Nhà nước cấp và hỗ trợ nên mức tham gia thấp, trong khi chi phí KCB lại cao hơn nhiều.
b. Yêu cầu về tính công khai, minh bạch trong cung cấp thông tin về các vấn đề liên quan tới việc quản lý đối tượng, giải quyết các chế độ thụ hưởng đối với người tham gia; đơn giản về thủ tục hồ sơ và rút ngắn thời gian giải quyết tạo thuận lợi cao nhất với người tham gia trong khi bộ máy tổ chức thực hiện còn không ít hạn chế, bất cập về năng lực cán bộ, sự gắn kết của hệ thống bộ máy BHXH từ Trung ương tới địa phương và về hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin để thực hiện các yêu cầu này. Đây là một thách thức lớn trong triển khai Luật BHXH và Luật BHYT.
- Luật BHXH năm 2014 có rất nhiều quy định mới mang tính cải cách mà theo đó cơ quan tổ chức thực hiện cần phải đáp ứng có hiệu quả, nhất là công tác quản lý đối tượng, cung cấp thông tin định kỳ việc đóng BHXH người lao động, thời hạn giải quyết các chế độ BHXH đối với người lao động được rút ngắn, vấn đề đốc thu, thanh kiểm tra theo chức năng mà theo đó phải mang lại sự chuyển biến thực sự về tình trạng trốn, nợ đóng BHXH sơ với thời gian trước sẽ là một thách thức lớn đối với cơ quan này.
- Sự phối hợp, hợp tác giữa Ngành BHXH với ngành y tế và cơ sở KCB còn hạn chế, thiếu sự hợp tác vì mục tiêu chung là công bằng, hiệu quả, cải thiện chất lượng điều trị.
- Chất lượng KCB BHYT ở tuyến dưới chưa đáp ứng yêu cầu do hạn chế về nhân lực chuyên môn và kỹ thuật y tế đã gây nên tình trạng quá tải, chờ đợi lâu ở các bệnh viện tuyến trên; tinh thần thái độ và y đức của cán bộ y tế chậm được cải thiện đã tạo tâm lý lo ngại đối với người tham gia BHYT và xã hội.
- Các hình thức lạm dụng quỹ BHYT, nhất là tại các bệnh viện ngày càng tinh vi, khó kiểm soát và phát hiện, song chưa có công cụ và biện pháp hiệu quả để kiểm soát; vẫn còn tồn tại tình trạng chênh lệch giá thuốc cùng loại giữa các bệnh viện trong tỉnh, giữa các tỉnh, giữa bệnh viện với thị trường; tình trạng không công bằng về chi trả quỹ BHYT cho mỗi ca bệnh ở các bệnh viện cùng hạng; tình trạng chênh lệch về tần suất KCB giữa các địa phương.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, công tác quản lý còn hạn chế; tình trạng sai thông tin trên thẻ, cấp chậm thẻ BHYT ở nhiều tỉnh.
c. Nguồn lực về tài chính và con người trong thực hiện một số chính sách, chế độ BHXH chưa được định lượng cụ thể để xác định rõ thời gian, mức được hỗ trợ cho người lao động tham gia loại hình BHXH tự nguyện cũng là một thách thức cần được tính tới trong việc triển khai Luật BHXH và Luật BHYT.
Với mục tiêu và định hướng nhân văn đảm bảo An sinh xã hội cho người dân, Luật BHXH đã thiết kế một số quy định nhằm tạo thuận lợi tốt cho người lao động tham gia loại hình BHXH tự nguyện đặc biệt là người lao động trong khu vực nông thôn, lao động làm việc trong khu vực phi kết cấu. Theo đó, một số điều chỉnh thật sự có ý nghĩa, đó là: (i) Không khống chế tuổi trần của người tham gia; (ii) Mức thu nhập tháng thấp nhất bằng mức chuẩn các hộ nghèo của khu vực nông thôn; (iii) Có chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người tham gia; (iv) Linh hoạt trong phương thức đóng: đóng một lần cho nhiều năm và đóng một lần cho những năm còn thiếu. Như vậy những khó khăn mà người lao động tham gia BHXH tự nguyện trước kia gặp phải tạo nên sự kém hấp dẫn thu hút người lao động tham gia trong thời gian trước kia đã cơ bản được tháo gỡ. Các nghiên cứu và thực tế của các nước tiến hành chính sách này đều chung một nhận định nếu không được nhà nước hỗ trợ một phần đóng trong những năm đầu tiên tham gia thì sẽ là khó khăn để có thể thu hút người lao động tham gia với quy mô mong muốn. Tuy nhiên do nguồn lực tài chính chưa dược định rõ nên Khoản 1 Điều 87 Luật BHXH có quy định: Căn cứ vào điều kiện phát triển KT - XH, khả năng ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người lao động tham gia BHXH tự nguyện. Vấn đề đặt ra thời điểm nào sẽ thực thi chính sách này để người lao động có thể tin rằng chính sách này là khả thi khi thực hiện.
5. Giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền để thực hiện mục tiêu mở rộng độ bao phủ BHYT, BHXH toàn dân
a. Tuyên truyền một cách sâu rộng những nội dung cơ bản nhất của Luật BHXH, Luật BHYT đối với các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức và trước hết tập trung nâng cao nhận thức của các đối tượng chịu tác động trực tiếp của các quy định trong Luật.
- Nội dung tuyên truyền được xác định phải tương thích với đối tượng cần tác động. Các nội dung này nên được xác định thống nhất với một sự chỉ đạo chung, nhất quán theo một kế hoạch tổng thể từ sự thống nhất của hai cơ quan Bộ LĐ-TB&XH với BXH Việt Nam. Khắc phục tính hình thức và dàn trải.
- Xác định một cách đầy đủ hơn vai trò của các tổ chức CT-XH, các tổ chúc đoàn thể như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân, Hội LHPN, sự vào cuộc có hiệu quả của cơ quan thông tấn, báo chí... trong hoạt động tuyên truyền pháp luật về BHXH, BHYT. Sự phối hợp chặt chẽ có nội dung, kế hoạch, có chương trình hành động thiết thực sẽ tác động tốt đối với người lao động trong nhận thức cũng như trong việc chủ động tham gia các loại hình BHXH theo Luật định.
- Đổi mới hình thức tuyên truyền BHXH, BHYT bảo đảm tính phong phú, đa dạng, phù hợp với đối tượng. Lựa chọn hình thức nào có kết quả theo đó, các cơ quan, tổ chức nên đánh giá lại hoạt động tuyên truyền này trong thời gian qua để có thể lựa chọn được các hình thức nào cần được tập trung hơn và mở rộng hơn trong thời gian tới. Phát huy lợi thế loại hình tuyên truyền miệng, như: nói chuyện chuyên đề, đối thoại chính sách. Nâng cao vai trò báo cáo viên, cộng tác viên; nâng cao chất lượng tài liệu tuyên truyền…
b. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác tuyên truyền
- Các cấp ủy đảng, chính quyền phải chủ động chỉ đạo sâu sát công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước;
- Chỉ đạo việc đưa các chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT vào chương trình kế hoạch phát triển KT-XH của các cấp như là một chỉ tiêu pháp lệnh để thực hiên chính sách an sinh xã hội.
TS. Bùi Sỹ Lợi
Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội