Tháng 10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Sửa đối lối làm việc". Đây là tác phẩm quan trọng về xây dựng Đảng cầm quyền, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn đối với Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc phê phán chủ nghĩa cá nhân, chỉ ra nguyên nhân và vạch ra phương hướng, biện pháp khắc phục, nhằm nâng cao trình độ lý luận, phẩm chất đạo đức, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, thật sự là một Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Trong tư tưởng của mình, Bác đặc biệt chú ý vấn đề cán bộ. Người nhấn mạnh: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, cán bộ là nòng cốt của mọi tổ chức, là lực lượng xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Theo Người:
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ là công việc gốc của Đảng. Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, thiết thực, phù hợp với chức trách nhiệm vụ của cán bộ. Đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp, chính trị, văn hoá, lý luận, thực tiễn, cả đức và tài, trong đó đức làm gốc.
Cần phải biết rõ cán bộ. Muốn biết rõ cán bộ phải đánh giá đúng, xem xét một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Phải từ hoạt động thực tiễn mà xem xét, đánh giá cán bộ. Tránh lối đánh giá thiếu công tâm, dân chủ hình thức. Người làm công tác cán bộ phải có đủ phẩm chất, năng lực, nghiêm túc tự phê bình những sai lầm khuyết điểm, mẫu mực, trong sáng, vô tư, biết tự đánh giá.
Khéo dùng cán bộ. Người chỉ rõ: Mục đích của dùng cán bộ cốt để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Dùng cán bộ đúng là phải chí công vô tư, không thành kiến, có tinh thần rộng rãi, gần gũi với cả người mình không ưa. Sáng suốt dùng người đúng chỗ, đúng việc. Bổ nhiệm, cất nhắc đúng lúc, đúng tầm, kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, cán bộ già với cán bộ trẻ; trọng dụng người tài và những người có ích - kể cả người ngoài Đảng cho công việc chung của Đảng.
Người yêu cầu: Đảng phải thương yêu cán bộ. Thương yêu không phải vỗ về, nuông chiều, thả mặc, thương yêu là giúp họ học tập, công tác, tu dưỡng, rèn luyện tốt. Giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày. Luôn chú ý đến công tác của cán bộ, giúp họ sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Quan tâm đến cuộc sống riêng và gia đình cán bộ. Người chỉ rõ, ai cũng có sai lầm, khuyết điểm, có làm việc thì có sai. Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ mọi người không cố gắng sửa chữa và người lãnh đạo không biết tìm cách giúp cán bộ sửa chữa, khuyết điểm.
Với những cán bộ mắc sai lầm, Người yêu cầu: Phải phê bình cho đúng, phải có thái độ nghiêm túc, thân thiết để giúp cán bộ nhận thức rõ nguyên nhân, tác hại và chỉ cho họ cách sửa chữa. Phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của cán bộ trong sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước những sai lầm của cán bộ. Chủ yếu sử dụng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, cảm hoá cán bộ. Song cần phân tích rõ ràng, cụ thể đúng, sai, xem xét kỹ lưỡng công việc của họ mà xử lý phù hợp. Người cho rằng: Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luận không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt là không đúng.
Vận dụng tư tưởng của Bác trong công tác cán bộ, ta nhận thấy một số vấn đề sau:
Một là, quyền hạn ít gắn với trách nhiệm cá nhân. Ở nước ta vai trò, trách nhiệm cá nhân chưa rõ nhưng lại rất đề cao vai trò tập thể. Cần xác định vai trò cá nhân trong công tác cán bộ. Nếu người đứng đầu khi được bầu hoặc bổ nhiệm, được trao đầy đủ quyền hạn để tự mình ra quyết định và chịu trách nhiệm cao nhất về quyết định của mình thì họ cũng phải trả giá cho những sai lầm trong quyết định, tùy theo tính chất và mức độ. Các vụ án tham nhũng trong thời gian gần đây cho thấy cơ chế trách nhiệm tập thể có những vấn đề cần điều chỉnh.
Hai là, cơ chế tuyển dụng cán bộ còn nhiều bất cập. Tuyển dụng suốt đời. Khi một nhân viên đã vào biên chế nhà nước có nghĩa là yên tâm công tác suốt đời, “đến hẹn lại lên lương”. Muốn sa thải thật sự khó mặc dù Luật Cán bộ công chức và Luật Viên chức đã quy định là kỷ luật buộc thôi việc, truy tố, 2 năm liên tục không hoàn thành nhiệm vụ… Nhưng hầu như chưa ai bị buộc thôi việc trong khi có đến 30% “sáng cắp ô đi, tối cắp về”. Hiện nay chưa có quy định, tiêu chí cụ thể về sàng lọc thường xuyên hằng năm để sa thải những cán bộ suy thoái, biến chất, làm việc không hiệu quả, kém chất lượng, những cán bộ không làm được việc dẫn đến bộ máy xơ cứng, thiếu năng động sáng tạo. Cơ chế tuyển dụng còn thiếu công khai minh bạch. So với trước đây đã có tiến bộ hơn, nhưng nhìn chung nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương còn thiếu công khai, minh bạch dẫn đến những tiêu cực trong tuyển dụng.
Ba là, tình trạng chạy chức, chạy quyền: Đã được nhắc đến nhưng vẫn chưa có nghiên cứu khảo sát, thống kê nào được đưa ra và có câu trả lời thỏa đáng.
Bốn là, sự chồng chéo trong quản lý cán bộ. Với tư cách là Đảng cầm quyền duy nhất, Đảng ta thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Tuy nhiên, thực tế vẫn có sự chồng chéo giữa các cơ quan đảng và nhà nước. Khi có tình huống xảy ra người ta khó có thể biết được chính xác đâu là chủ thể trách nhiệm chính, cơ quan đảng hay cơ quan nhà nước.
Tình trạng trên cho thấy cần có một số giải pháp đổi mới công tác tổ chức cán bộ. Trước hết, nên trao quyền gắn với trách nhiệm cá nhân. Mạnh dạn trao quyền tuyển dụng, đề bạt cán bộ dưới quyền cho chính người lãnh đạo trực tiếp để buộc họ phải chịu trách nhiệm cao nhất về các quyết định của mình, nếu họ làm sai thì cơ quan cấp trên sẽ kỷ luật hoặc cách chức. Nhưng khi giao quyền thì phải có 1 cơ quan khác giám sát, kiểm soát quyền lực được giao. Xây dựng nét văn hóa từ chức khi không còn tín nhiệm trong tập thể hoặc không hoàn thành nhiệm vụ, sai phạm.
Cần thay đổi hình thức tuyển chọn cán bộ. Tạo cơ chế tuyển dụng theo nguyên tắc “mở” và cạnh tranh công khai, minh bạch sẽ góp phần giảm tiêu cực trong xã hội. Thực tế đã có một số tỉnh thực hiện chế độ thi tuyển công chức lãnh đạo như Quảng Ninh, Hải Phòng Đã Nẵng, Quảng Nam. Nên tổng kết và nhân ra diện rộng.
Minh bạch hóa việc bầu cử, bổ nhiệm. Đây là điều kiện để nhân dân có thể tham gia vào công tác xây dựng đảng.Việc giám sát quyền lực, các điều kiện, tiêu chuẩn phải được lượng hóa rõ ràng, tránh tình trạng chung chung. Bằng cấp chỉ là điều kiện “cần”, điều kiện “đủ” phải là vận dụng các lý thuyết được đào tạo vào thực tiễn có hiệu quả. Việc bầu cử, bổ nhiệm được người xứng đáng vào vị trí lãnh đạo về thực chất là biểu hiện trách nhiệm của Đảng trước nhân dân chọn được người có đức, tài để làm những công việc ích nước, lợi nhà và phục vụ nhân dân được tốt hơn. Mỗi vị trí bầu cử, bổ nhiệm cần có số dư để lựa chọn, có cạnh tranh bình đẳng, đúng pháp luật. Mỗi người phải chuẩn bị và tự trình bày chương trình hành động của mình nếu được bầu cử, bổ nhiệm.
Xác định rõ ràng chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước đối với công tác cán bộ. Thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng một cách rõ ràng, cụ thể: Việc gì cần xin ý kiến cấp ủy? Việc gì cấp ủy không cần can thiệp? Cấp ủy chịu trách nhiệm công việc ở mức độ nào? Các quy định càng cụ thể thì bộ máy vận hành càng tốt, tránh chồng chéo. Khi Đảng giới thiệu đảng viên giữ các vị trí lãnh đạo trong chính quyền thì nhân sự đó phải chịu trách nhiệm hoàn toàn và vô điều kiện trước pháp luật .
Để đổi mới công tác cán bộ theo Nghị quyết Đại hội XI, Đảng chỉ nên xác định tiêu chuẩn từng loại cán bộ, trách nhiệm cụ thể của thủ trưởng cơ quan trong công tác cán bộ và theo dõi, giám sát việc thực hiện. Đảng giao quyền hạn và trách nhiệm cho người đứng đầu các cơ quan sử dụng cán bộ thực hiện theo đúng quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước về công tác cán bộ. Làm như vậy vừa bảo đảm tính công khai trong công tác cán bộ, vừa có thể khắc phục tiêu cực, quy rõ được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan nhà nước khi có vụ việc xảy ra liên quan đến cán bộ thuộc quyền.
Thực hiện tốt 4 nhiệm vụ Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Chỉ rõ được những vấn đề, vụ việc, cá nhân, tập thể đã vi phạm hoặc có biểu hiện vi phạm cùng với phương hướng khắc phục, sửa chữa cụ thể.
Tích cực phát huy vai trò giám sát của quần chúng nhân dân thông qua mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Trong mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp cần xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện: “Cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời”.
Đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội bằng việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở các cấp, các ngành để bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, bảo vệ người phát hiện, tố cáo những sai trái của cán bộ, đảng viên, cấp ủy.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Nghiêm túc trong thực hiện tự phê bình và phê bình để kịp thời phát hiện, ngăn chặn tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống. Thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Phải có lộ trình và bước đi cụ thể, làm thí điểm, tổng kết đánh giá ưu, khuyết điểm, hạn chế, nguyên nhân. Đánh giá chính xác, khách quan sau đó nhân rộng mô hình tốt ra các địa phương khác nhưng tránh rập khuôn máy móc khi các địa phương có các điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh khác nhau.
Phạm Đình Lương
Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ xã hội - Sở Lao động- Thương binh và Xã hội TP. Hồ Chí Minh