Tuổi Giáp Dần
* Nguyễn Chí Thanh (1914-1967)
Tên
thật là Nguyễn Vịnh, quê thôn Niêm Phò, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay
là Thừa Thiên-Huế). Năm 1937, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, giữ các chức
vụ Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy (Thừa Thiên), Bí thư Khu ủy (khu IV). Năm
1945, được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào, Tuyên Quang và được bầu vào
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung kỳ. Trong
kháng chiến chống Pháp, làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt
Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), được cử vào Bộ Chính trị, ủy
viên Hội đồng Quốc phòng. Năm 1959, được phong hàm Đại tướng. Trong kháng chiến
chống Mỹ, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải
phóng miền Nam. Mất ngày 6-7-1967 tại Hà Nội.
* Lương Văn Can (1854-1927)
Nhà
cách mạng Việt Nam, quê ở làng Nhị Khê (nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà
Nội). Năm 1871, khi 17 tuổi, Lương Văn Can đỗ thi Hương, vào tới tam trường.
Năm 1875, đỗ Cử nhân, nhưng do bố mất, ông không thi Hội nữa. Năm 25 tuổi
(1879) ông mở trường dạy học tại số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội. Năm 1907, ông cùng
bạn bè lập trường Đông Kinh nghĩa thục, khởi xướng cuộc cách mạng về văn hóa,
đồng thời tuyên truyền lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp trong nhân dân.
Tháng 12-1907, Đông Kinh nghĩa thục bị giải tán, ông bị bắt giam, người Pháp
không có chứng cứ kết tội nên phải thả. Năm 1913, ông bị kết án biệt xứ và đày
đi Campuchia. Năm 1924, ông được tha về
và mất tại Hà Nội năm 1927.
Tuổi
Bính Dần
* Ngô Thì Nhậm (1746-1803)
Ngô
Thì Nhậm, sinh ngày 25-10-1746 tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà
Đông (nay thuộc xã Đại Thanh, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội). Ông đỗ giải
Nguyên năm 1768, Tiến sĩ tam giáp năm 1775. Sau đó, được bổ làm quan ở bộ Hộ
dưới triều Lê-Trịnh. Năm 1778, làm Đốc đồng Kinh Bắc và Thái Nguyên. Sau vụ án
năm Canh Tý (1780), ông bị nghi ngờ là người tố giác Trịnh Khải nên phải về quê
vợ ở Thái Bình lánh nạn. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc, bổ ông vào chức Tả thị
lang bộ Lại, sau thăng làm Thượng thư bộ Lại-chức cao nhất trong Lục bộ. Sau
khi Quang Trung mất, ông quay về nghiên cứu Phật học. Khi Gia Long tiêu diệt
Tây Sơn, ông bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803, sau trận đòn, về nhà thì
mất.
Tuổi Mậu Dần
* Trần Thái Tông (1218-1277)
Tên
thật là Trần Cảnh, quê ở làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, huyện Mỹ Lộc, Nam
Định, là vị vua mở nghiệp nhà Trần, một triều đại cực thịnh trong lịch sử dân
tộc. Do sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh và sau đó
nhường ngôi cho ông (năm 1226). Ông là vị vua có công đưa đất nước thời kỳ lộn
xộn cuối đời Lý đến bình an và thịnh vượng, đặt nền móng xây dựng chế độ thi
cử, mở mang việc học để tuyển chọn hiền tài. Ông cũng trực tiếp chỉ huy chống
quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225-1258), làm Thái
thượng hoàng 19 năm.
Tuổi Nhâm Dần
* Phan Đăng Lưu (1902-1941)
Quê
ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân Việt
Cách mạng Đảng) từng giữ chức Uỷ viên Tổng bộ. Năm 1928, Phan Đăng Lưu tham gia
xuất bản “Quan hải tùng thư” tại Huế; giữ chức Uỷ viên Thường vụ Tổng bộ Đảng
Tân Việt. Ngày 15-12-1928, sang Trung Quốc để liên lạc với Tổng bộ Thanh niên
Cách mạng Đồng chí Hội. Được bầu vào Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1938)
và Uỷ viên Thường vụ Trung ương (1940), được phân công chỉ đạo phong trào ở Nam
kỳ. Bị thực dân Pháp bắt ngày 22-11-1940 tại Sài Gòn, kết án và tử hình ở Hóc
Môn ngày 28-8-1941.
* Lê Văn Hưu (1230-1322)
Lê
Văn Hưu là nhà sử học đời nhà Trần, quê làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hóa, nay thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Năm 1247, ông
đỗ bảng Nhãn, được cử giữ chức Kiểm pháp quan, rồi Binh bộ Thượng thư, sau đó
Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu. Ông là thầy học của Thượng tướng
Trần Quang Khải. Lê Văn Hưu biên soạn Đại Việt sử ký - bộ quốc sử đầu tiên của
Việt Nam - ghi lại những sự kiện lịch sử quan trọng gần 15 thế kỷ, từ Triệu Vũ
đế (tức Triệu Đà) tới Lý Chiêu Hoàng. Đại Việt sử ký gồm 30 quyển, hoàn thành
năm 1272 và được Trần Thánh Tông xuống chiếu ban khen. Ông mất ngày 23-3 năm
Nhâm Tuất, hưởng thọ 92 tuổi.
* Hà Huy Tập (1902-1941)
Quê
ở xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1923, tốt nghiệp Quốc học
Huế, rồi dạy học ở Vinh, sau vào Sài Gòn, tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành
Tân Việt). Cuối 1928, cùng Phan Đăng Lưu sang Quảng Châu bàn việc hợp nhất Tân
Việt với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và chuyển sang hoạt động trong Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929, sang Liên Xô học Trường Đại học Phương
Đông của Quốc tế Cộng sản. Tháng 3-1935, trực tiếp chủ trì Đại hội Đảng lần thứ
nhất họp ở Ma Cao (Trung Quốc) từ 27 đến 31-3-1935. Tháng 7-1936, được cử giữ
chức Tổng Bí thư. Sau đó, Hà Huy Tập về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách
mạng. Ngày 1-5-1938, bị thực dân Pháp bắt, kết án tù, trục xuất về nguyên quán.
Ngày 30-3-1940, lại bị bắt vì buộc tội là người chịu trách nhiệm tinh thần về
cuộc khởi nghĩa Nam kỳ và kết án tử hình (ngày 28-8-1941). Sau 68 năm kể từ ngày
hy sinh tại Hóc Môn (Gia Định) đã tìm được phần mộ và di dời hài cốt đồng chí
Hà Huy Tập về an táng tại quê hương.
* Phan Huy Chú (1782-1840)
Phan
Huy Chú-nhà bác học lớn, danh nhân văn hóa của Việt Nam, quê ở huyện Thiên Lộc
(nay là Lộc Hà, Hà Tĩnh). Vốn thông minh, lại được sự dạy dỗ cẩn thận của gia
đình nên Phan Huy Chú học giỏi nổi tiếng cả vùng Quốc Oai, Sơn Tây (nay thuộc
Hà Nội). Năm 1821, ông được vua Minh Mệnh bổ giữ chức Hàn lâm biên tu. Trong
thời gian này, ông soạn bộ “Lịch triều Hiến chương loại chí”. Ông nhiều lần
được cử đi sứ ở Trung Quốc và Ba-ta-vi-a (nay thuộc In-đô-nê-xi-a). Cuối đời, chán làm
quan, ông mượn cớ đau yếu xin về nghỉ và dạy học ở Thanh Mai, huyện Tiên Phong,
Sơn Tây (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, Hà Nội) rồi mất tại đó, hưởng dương
58 tuổi n
Nguyễn
Nhân Thống (sưu tầm)