Xuân đến,
Đông qua là quy luật vốn có của trời đất. Khi mà cánh cửa thời gian năm Kỷ Sửu
khép lại, cũng là thời khắc mở đầu Xuân Canh Dần-2010, tăng ni, phật tử lại
cùng đồng bào cả nước đồng hành vào
xuân: Thương trưởng đản sinh của Đức Phật Di Lặc; mừng 65 năm Quốc Khánh 2-9
cùng 24 mùa xuân đất nước đổi mới; chào đón đại hội đảng bộ các cấp tiến tới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam với 80 mùa xuân
xây dựng và phát triển. Gần 2.000 năm hiện diện trên đất Việt, Phật giáo Việt
Nam đã cùng đất nước trải qua những bước thăng trầm của lịch sử và thời đại.
Ngay từ
những ngày đầu đạo Phật đã được nhân dân ta trân trọng và đón nhận như một tôn
giáo tín ngưỡng của dân tộc. Tư tưởng giáo lý đạo Phật, văn hóa tâm linh, tín ngưỡng
dân tộc đã nhanh chóng hòa quyện với nhau, như nước thấm sâu vào lòng đất và
tạo nên sự gắn kết không thể phân ly. Đây là đặc điểm nổi bật và đã trở thành
truyền thống trong suốt quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Việt
Nam.
Quốc sư Khuông
Việt (vị Quốc sư có công phù trì nước Việt) do vua Đinh Tiên Hoàng ban tên
hiệu, như là phần thưởng quý nhất của triều đình để tỏ lòng thành kính và tri
ân công đức đến một vị danh tăng đã có công lao to lớn đối với quốc gia Đại
Việt ngay từ những ngày đầu giành được độc lập; cũng là nhằm để giáo dục thần
dân trăm họ phải luôn noi gương ngài trong việc phù trì đất nước. Quốc sư Vạn
Hạnh tham gia cố vấn nơi triều chính từ thời nhà tiền Lê đến việc lập nên triều
Lý. Vua Lý Thái Tổ và Quốc sư Vạn Hạnh không chỉ là mối quan hệ vua tôi mà còn
là mối quan hệ thầy trò. Từ lúc sinh ra cho đến khi trưởng thành, vua Lý Thái
Tổ (tức Lý Công Uẩn) đã được Quốc sư Vạn Hạnh đỡ đầu nuôi dưỡng trong mái ấm
cửa thiền và đến khi hội đủ nhân duyên, Quốc sư đã tham vấn triều đình tôn vinh
ngài làm vua, sáng lập ra Triều đại nhà Lý. Thông qua bao chuyến kinh hành cùng
Vua đến Thành Đại La, với sự am hiểu thiên văn, địa lý, hiểu rõ quy luật đạo
đời, Quốc sư đã tham vấn triều đình tổ chức hội nghị bàn về việc rời đô và bằng
nhãn quan chính trị, văn hóa, kinh tế sâu sắc, nhận rõ vị trí chiến lược của
Thành Đại La vua Lý Thái Tổ đã ban chiếu rời đô từ Hoa Lư ra Đại La và đổi tên
là Thăng Long (Thủ đô Hà Nội ngày nay), mở ra một triều đại thịnh trị hơn hai
thế kỷ. Thấm nhuần tư tưởng giáo lý đạo Phật, các vị vua Triều Lý còn ban chiếu
đến khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến thôn quê cho phép tạo dựng chùa
tháp, đúc vẽ tượng Phật để khuyến thiện, lánh ác trong đời sống xã hội; tuyển
dụng tăng tài, mở trường đào tạo nhân tài cho đất nước.
Trần Nhân
Tông, vị vua anh minh, đức trí song toàn của Triều đại nhà Trần, sau khi cùng
thần dân trăm họ đánh thắng giặc ngoại bang, đã nhường ngôi vua cho con trai để
lên núi tu hành, sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với danh hiệu Đầu Đà Điều
Ngự giác Hoàng Tịnh Tuệ Thiền sư và đã được các thế hệ Việt Nam tôn vinh Ngài
là một danh nhân văn hóa của dân tộc và đang đề nghị UNESCO công nhận là một
danh nhân văn hóa thế giới. Đối với Tăng ni, Phật tử Việt Nam, Phật hoàng Trần
Nhân Tông được tôn kính như là vị Phật Tổ của đạo Phật Việt Nam. Đến hôm nay đã
hơn 700 năm kể từ ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, tư tưởng phụng sự
đạo pháp, dân tộc và trị quốc của Người vẫn luôn là những bài học kinh nghiệm
vô giá đối với dân tộc, đặc biệt là đối với những người học Phật, tu Phật, các
học giả và chính khách. Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, với nhiều vị
vua trị vì đất nước, song có thể nói tư tưởng Phật giáo thời này được coi là tư
tưởng đạo đức văn hóa của xã hội, góp phần to lớn trong công cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hóa Việt trước sự xâm lấn của văn
hóa ngoại bang.
Trong suốt
thời kỳ đất nước bị xâm lược bởi thực dân, đế quốc, nhiều phong trào đấu tranh
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước phát triển rộng khắp,
nhiều tăng ni, phật tử đã tích cực tham gia. Đặc biệt, đến thời kỳ Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng đấu tranh chống đế
quốc, thực dân để giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà, nhiều vị tăng ni
đã làm lễ hạ cà sa để tòng quân trực tiếp tham gia kháng chiến, nhiều phong
trào đấu tranh của tăng ni phật tử nở rộ khắp nơi, dưới mọi hình thức, thậm chí
có những vị bị giặc bắt giam và phải chịu sự tra tấn cực hình, song vẫn trung
thành với lý tưởng của cách mạng, tin tưởng vào chính nghĩa và sự tất thắng của
ngày mai. Đó là những minh chứng sống động của những người con Phật Việt Nam
trong việc phụng sự Tổ quốc, phụng sự chúng sinh và vững bước đồng hành cùng
dân tộc.
Tư tưởng
Phật giáo đã thực sự thấm sâu trong lòng dân tộc, tạo nên sự gắn kết keo sơn
không thể phân ly giữa đạo và đời. Những yếu tố tạo nên nền văn hóa, tâm linh,
tín ngưỡng, hội họa, kiến trúc, đạo đức lối sống ứng xử của dân tộc, những mái
chùa truyền thống, những phong tục tập quán thờ cúng ông bà, tổ tiên, những ấn
phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể, tư tưởng đạo đức ở hiền gặp lành, uống
nước nhớ nguồn được tôn vinh trong đời sống xã hội, đều có nguồn gốc hoặc có sự
ảnh hưởng sâu sắc của giáo lý đạo Phật và tất cả đã kết lại trở thành một nền
văn hóa giàu truyền thống mang đậm nét bản sắc dân tộc Việt Nam.
Phát huy
truyền thống yêu nước, gắn bó và đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo Việt Nam,
ngày nay tăng ni, phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam tích cực triển khai nhiều
hoạt động phật sự ích đạo lợi đời không chỉ đối với phật sự trong nước mà còn ở
nước ngoài. Công tác kiện toàn tổ chức giáo hội từ trung ương đến địa phương đã
được thiết lập ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt ở các khu
vực miền núi, biên giới, qua đó nâng cao hiệu quả các hoạt động phật sự của các
cấp Giáo hội. Công tác hoằng dương chính pháp, hướng dẫn phật tử được phát
triển cả chiều sâu và chiều rộng, nhiều khoá đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ phật
sự được tổ chức ở nhiều địa phương, đã thu hút hàng vạn Phật tử tham gia, không
chỉ ở các trung tâm thành phố, đồng bằng mà còn tổ chức đến các vùng dân tộc thiểu
số. Công tác từ thiện xã hội được đẩy mạnh với nhiều chương trình thiết thực
nhằm hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội ở nhiều nơi có hiệu quả, nhất là vùng
đồng bào bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hạn hán, lũ lụt và tai nạn bất thường.
Công tác giáo dục đào tạo tăng ni được các cơ sở giáo dục đào tạo của Giáo hội
chú trọng ở tất cả các cấp học, tạo nên mạng lưới giáo dục đào tạo ngày một
hoàn chỉnh, phù hợp với xu thế chung của xã hội. Nhiều hoạt động nghi lễ mang
tính truyền thống đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đã được phối hợp với
nhiều ngành, nhiều cấp, được cộng đồng xã hội đánh giá cao. Công tác bang giao
quốc tế hữu nghị truyền thống với Phật giáo các nước và các tổ chức quốc tế,
tôn giáo bạn được duy trì thường xuyên thông qua nhiều hoạt động khác nhau.
Công tác bảo tồn văn hóa truyền thống, trùng tu, tôn tạo, xây mới các cơ sở tự
viện trong toàn quốc cũng như một số cơ sở tự viện của cộng đồng người Việt ở
nước ngoài và xuất bản ấn phẩm Phật giáo, nghiên cứu trao đổi học thuật được
tập trung đầu tư, bảo đảm chất lượng cao của mỗi công trình. Những kết quả Phật
sự đó đã nói lên tinh thần phụng sự Đạo pháp và Dân tộc của tăng ni, cư sĩ phật
tử Việt Nam trong việc phát huy truyền thống hộ quốc an dân của Phật giáo Việt
Nam.
Với đường
hướng hoạt động Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội, với lý tưởng giác ngộ chân
lý, hoà hợp chúng sinh, hoà bình và công bằng xã hội của giáo lý đức Phật, nhằm
phục vụ dân tộc, Tổ quốc và nhân loại chúng sinh, tăng ni, phật tử Giáo hội
Phật giáo Việt Nam luôn vững bước đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho mục tiêu
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ích đạo, lợi đời.
Hòa thượng Thích Thanh Tứ
Phó Chủ tịch Thường trực
Hội đồng Trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam