Cách mạng Tháng Tám- Tầm cao trí tuệ, sức mạnh toàn dân

Lịch sử là sự kế tục và nhân lên những giá trị trường tồn tạo thành cốt cách, tinh hoa và sức mạnh tiềm ẩn vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam và ở thời đại nào cũng thể hiện ở hai nhân tố: Tầm cao trí tuệ và sức mạnh toàn dân tộc. Thời nhà Trần, nhờ có tầm cao trí tuệ của bộ máy lãnh đạo quốc gia nên đã thâu thái được trí tuệ của bộ phận tinh hoa nhất của đất nước, vua sáng tôi hiền, để nghị bàn, tìm ra được các quyết sách chính trị đúng: khoan thư sức dân, phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, trọng dụng nhân tài, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, tướng tài, binh giỏi, lấy nhân nghĩa, đạo đức làm gốc, lấy danh dự, lợi ích quốc gia làm trọng... Vì thế nên nội trị và ngoại giao đều sáng suốt, khôn khéo, tạo nên sức mạnh Đại Việt ba lần đánh thắng quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới lúc đó. Nhưng tiếc rằng các thế hệ lãnh đạo tiếp theo của nhà Trần đã không giữ gìn được các phẩm chất tốt đẹp mà tiền nhân tạo lập, họ tranh nhau chức quyền, chia phe phái, ăn chơi trác táng, nghi hoặc, khinh rẻ kẻ sỹ chân chính và đục khoét của dân. Vậy nên nền học vấn suy đồi, dân tình đói kém, tệ nạn xã hội phát sinh như dịch, bộ máy công quyền từ triều đình đến thôn cùng xóm vắng là lũ sâu dân mọt nước, vì thế lòng người ly tán, dẫn đến sự sụp đổ của một triều đại mà thế hệ cha ông họ đã làm nên vẻ đẹp kiêu hùng, ghi dấu ấn vàng son rực rỡ và đã trở thành niềm tự hào của dân tộc. Rồi lại như triều Nguyễn với bao nhiêu năm công sức dựng xây và mở mang bờ cõi, tiếp tục tạo lập một quốc gia hùng mạnh có kỷ cương, có nền văn hiến rực rỡ mà dấu ấn của thời thịnh trị còn lưu truyền đến tận mai sau. Nhưng rồi sự nghiệp tan tành, đất nước rơi vào tay ngoại bang ngót một trăm năm cũng chỉ vì triều đình u tối, nội trị ngoại giao sai lầm, bộ máy quan lại từ cung đình xuống đến xã thôn hầu hết là lũ bất lương, áp bức, bóp nặn dân lành, đẩy dân tộc vào cảnh đời nô lệ, lầm than. “Tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy tôn giáo và văn hoá làm cho dân ngu, lấy phép luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho dân nghe đến hai chữ cách mệnh thì sợ rùng mình... Dân khổ quá hay làm bạo động... Dân vì không hiểu tình thế trong thế giới, không biết so sánh, không có mưu chước... Dân thường chia rẽ phái này bọn kia, như dân ta người Nam thì nghi người Trung, người Trung thì khinh người Bắc nên nỗi yếu sức đi như đũa mỗi chiếc mỗi nơi”(1). Biết bao cuộc nổi dậy chống Pháp xâm lược tuy vô cùng anh dũng nhưng đều thất bại đau đớn. Đất nước tối tăm như không có đường ra. Muốn tiến hành một cuộc cách mạng giải phóng thì phải có người lãnh đạo với tầm cao trí tuệ và mưu lược để trước hết làm cho dân giác ngộ, biết đường hướng mà đi, biết đồng tâm hiệp lực, bền gan đấu tranh, biết đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho ta. Muốn vậy thì “ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao phải làm (cách mạng - TĐH chú), vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay không nên người này ngồi chờ người khác. Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng lại biết cách làm thì làm mới chóng”(2). Sứ mệnh dẫn dắt dân tộc bước lên con đường đấu tranh cách mạng giải phóng ấy, lịch sử đã tìm thấy ở bộ phận tinh hoa nhất của dân tộc mà tiêu biểu hơn cả là Nguyễn Tất Thành - Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh. Sau 19 năm (1911-1930) bôn ba khắp các phương trời Âu, á, Mỹ, Phi lao động, học tập, nghĩ suy, đấu tranh, trải nghiệm, khi đã trở thành một chiến sỹ cộng sản kiên cường trên trường quốc tế, đầu năm 1930 Nguyễn ái Quốc trở về dâng hiến cho Tổ quốc, nhân dân mình hai thành tựu đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam: thống nhất ba tổ chức cộng sản ở trong nước đang trong tình trạng chia rẽ, thành lập một đảng cách mạng chân chính lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với các văn kiện chính trị vượt trội so với các tư tưởng cách mạng đương thời, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 3-2-1930. Trải 10 năm với những thăng trầm của phong trào cách mạng trong nước và thế giới, đầu năm 1941 Nguyễn ái Quốc lại trở về dâng hiến cho Tổ quốc - nhân dân Việt Nam toàn bộ trí tuệ, tinh thần và sức lực, cùng toàn Đảng, toàn dân gánh vác sứ mệnh lịch sử. Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Đảng quyết định chuyển hướng chiến lược, tập trung vào vấn đề có ý nghĩa sống còn của dân tộc là phải giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc. Lời “Kính cáo đồng bào” của Người thống thiết như hồn thiêng sông núi ngàn năm vọng về: “Nay cơ hội giải phóng đến rồi... Hỡi đồng bào!... Hỡi các bậc phụ huynh! Hỡi các bậc hiền huynh chí sĩ! Mong các ngài noi gương phụ lão đời nhà Trần trước họa giặc Nguyên xâm lấn, đã nhiệt liệt hô hào con em tham gia sự nghiệp cứu quốc. Hỡi các bậc phú hào yêu nước, thương nòi! Hỡi các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương! Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng... Hỡi các chiến sĩ cách mạng! Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung...”(3). Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng ấy, đồng bào ta từ Nam ra Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến hải đảo xa xôi, toàn dân tộc đã kết thành một khối, không phân biệt trẻ, già, trai, gái, dân tộc, giai cấp, giàu nghèo, sang hèn... cùng đứng trong Mặt trận Việt Minh, chớp lấy thời cơ, nhất tề nổi lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám - 1945, mở ra một kỷ nguyên mới, một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam: Thời đại dân chủ cộng hòa. Từ một đất nước bị nô lệ, lầm than, không có tên trên bản đồ thế giới, sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh nhân danh Chủ tịch chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn lịch sử, khai sinh ra một kiểu nhà nước mới - nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4). Giành được chính quyền sau hơn 80 năm bị mất nước là một sự nghiệp vô cùng khó khăn. Nhưng giữ vững được chính quyền còn khó khăn gấp bội. Chính quyền non trẻ như ngàn cân treo sợi tóc rất có thể bị thù trong, giặc ngoài bóp chết một sớm một chiều nếu như không có khả năng quyền biến, ứng đối cương nhu, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trí dũng song toàn, khoan dung và độ lượng, lấy việc giữ vững toàn vẹn chủ quyền quốc gia làm trọng của Hồ Chí Minh cùng với sự đồng tâm hiệp lực, trên dưới một lòng của các chiến sĩ cách mạng và sự hy sinh anh dũng của các giới đồng bào cả nước ta từ Bắc đến Nam. Đấu tranh để tiêu diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm là ba nhiệm vụ khẩn cấp lúc bấy giờ. Lâu nay chúng ta vẫn nói và viết rất nhiều về quyết sách chính trị sáng suốt và việc thực hiện thắng lợi các quyết sách đó của Chính phủ, đứng đầu là Hồ Chủ tịch. Nhưng theo tôi, chúng ta dường như ít nói tới sự sáng suốt và quyết tâm chống một thứ giặc nội xâm ngay trong hàng ngũ của chính quyền cách mạng. Chỉ có ở tầm cao trí tuệ và sự am tường sâu sắc các căn bệnh thâm căn cố đế, tiềm ẩn như một thứ giặc bên trong của mọi hình thái nhà nước, kể cả nhà nước công nông non trẻ của chúng ta, như Hồ Chủ tịch, thì mới đảm bảo cho sự tồn tại vững vàng của thể chế chính trị tốt đẹp vừa mới được thành lập. Bài học về chống giặc nội xâm trong hàng ngũ chúng ta có ý nghĩa trường tồn, nó vẫn đang có tính thời sự nóng hổi khi Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam ngày ấy nay đã bước vào tuổi 65 và đã có tên gọi mới là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một kiểu nhà nước, về thực chất, phải là sự tiến bộ gấp nhiều lần về kỷ cương, về thể chế dân chủ và pháp quyền, về quyền tự do... được thi hành bởi một chính phủ làm công bộc và một đội ngũ cán bộ, công chức thanh liêm, đạo đức, hết lòng tôn kính, phụng sự nhân dân. Hơn bất cứ lúc nào, chúng ta cần nhớ lại quá khứ để một lần nữa thấy được tầm cao trí tuệ, đạo đức của một vĩ nhân mà hiện nay Đảng ta đang phát động phong trào rộng rãi học tập và làm theo, coi nó như là một giải pháp nhằm đổi mới, chỉnh đốn, làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước. Giặc nào cũng nguy hiểm, nhưng giặc nội xâm là nguy hiểm hơn cả vì nó có vị trí quyết định đến thành bại của sự nghiệp chống mọi thứ giặc khác. Chống giặc nội xâm cũng giống như chống bất cứ thứ giặc nào, trước hết cần một bộ máy lãnh đạo có mưu lược và trung thành, gương mẫu, sẵn sàng đi tiên phong dẫn dắt toàn dân tộc. Cấp trên, đảng viên phải đi trước, làm trước để cấp dưới, làng nước theo sau, thực hành “tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi lạc” như Hồ Chí Minh từng nói và cả đời Người đã làm một cách rất nghiêm túc, cẩn trọng để nêu gương, tuyệt đối không được “tiên thiên hạ chi ưu tiên, hậu thiên hạ chi lạc hậu” (đừng lợi lộc vui vẻ thì hưởng trước và lạc hậu vô trách nhiệm hơn cả những phần tử lạc hậu trong xã hội). Nhớ mãi phiên họp ngày 31-10-1946 của kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa 1: Sau khi được Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên bố như sau: “Lần này... Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ... Quốc hội uỷ cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận. Giờ tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan phát tài. Chính phủ sau đây phải là một chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái... Tuy trong quyết nghị không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết. Theo lời quyết nghị của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà...”(5). Một nguyên thủ quốc gia, một lãnh tụ của Đảng đồng thời là lãnh tụ của dân tộc có được một lời tuyên bố có sức cảm hoá và thu phục lòng người đến như vậy là bởi đằng sau những lời nói bình dị ấy đã được đảm bảo bằng cả cuộc đời trong sáng, không tỳ vết bởi cái tôi vị kỷ, bởi thói tham quyền cố vị, thăng quan phát tài... Một nguyên thủ quốc gia đồng thời là người đứng đầu chính phủ có tâm và có tầm như vậy mới đủ tín nhiệm và quyền uy để nói những điều răn dạy cho toàn thể cán bộ, công chức trong hệ thống công quyền ngay từ khi mới có chính quyền: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(6). Hồ Chủ tịch đã chỉ ra kẻ thù bên trong làm suy thoái nền chính sự quốc gia có những biểu hiện là làm trái phép nước, vi phạm pháp luật, lách luật; là cậy thế mình ở trong bộ máy nhà nước rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao làm vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân; là ngày càng sa đọa, thoái hoá, xa xỉ, tham nhũng, chiếm đoạt của công; là óc quân phiệt, quan liêu, hình thức chủ nghĩa; là kéo bè, kéo cánh, bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là việc công chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai; là kiêu ngạo, tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi. Coi khinh dân, lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên. Hồ Chủ tịch khuyên nhủ ai chưa mắc những sai lầm đó thì tránh đi, ai đã phạm thì cố gắng sửa chữa. Nhưng Người cũng nghiêm khắc tuyên bố “nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”(7). Người kịch liệt phê phán sự dung túng, kỷ luật hình thức để che mắt dân, đánh lừa dư luận như tình trạng “Nhiều nơi các đồng chí phạm lỗi, nhưng không bị trừng phạt xứng đáng, có đồng chí bị hạ tầng công tác nơi này, đi nơi khác lại ở nguyên cấp cũ hay chỉ bị hạ tầng công tác theo hình thức, nhưng vẫn ở cấp bộ cũ làm việc. Có đồng chí đáng phải trừng phạt, nhưng vì cảm tình nể nang chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ lẫn cho nhau, lừa dối cấp trên, giấu giếm Đoàn thể”(8). Đọc lại những dòng trên đây, đối chiếu với thực trạng của bộ máy công quyền hiện nay, chúng ta thật không thể hiểu được tại sao trong khi toàn Đảng, toàn dân ta đang hưởng ứng cuộc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, đẩy mạnh chống quan liêu, tham nhũng thì có thủ trưởng lại tuyên bố rằng: Mấy năm nay tôi chưa xử lý kỷ luật đồng chí nào. Lại có đồng chí nói một cách rất “đạo lý” đến khó hiểu rằng: Không phải sai là chặt chém ngay, thế thì lấy đâu ra người làm. Dẹp đi là bầu không kịp... Nghe những lời phát biểu ấy, chúng ta không thể không nhắc lại sự dạy bảo của Bác Hồ về cách đối với cán bộ sai lầm trong cuốn Sửa đổi lối làm việc: “Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng...”(9). Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đẩy mạnh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền”; “Phải kiên trì thực hiện tốt vừa xây, vừa chống trong phòng, chống tham nhũng. Khẩn trương xây dựng và thực hiện kiên quyết hệ thống pháp luật đồng bộ về phòng ngừa, phát hiện và xử lý những người có hành vi tham nhũng”; “Xử lý nghiêm minh, kịp thời, công khai cán bộ, công chức tham nhũng, không phân biệt chức vụ và địa vị xã hội còn đương chức hay nghỉ việc” và “... ban hành và thực hiện quy định để xử lý thích đáng đúng pháp luật người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xẩy ra tham nhũng, gây hậu quả nghiêm trọng”(10). Nhớ lại tình hình nước ta năm 1946, cán bộ công chức của ta lúc ấy còn rất trẻ, cả một đội ngũ vừa yếu, vừa thiếu nên ngày 17-1, Hồ Chủ tịch đã có những lời khuyên chân tình đối với anh em viên chức là phải có 4 đức tính cần, kiệm, liêm, chính: “Có cần, có kiệm, không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên chức mới có thể trở nên liêm chính để cho người ngoài kính phục”. Nhưng để duy trì phép nước một cách công minh, khích lệ người tốt, trừng phạt kẻ xấu nên chỉ 9 ngày sau đó (ngày 26-1), Người đã ký ban hành Quốc lệnh có 10 điều thưởng, trong đó: “Ai làm việc công một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng. Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc và được dân chúng mến phục sẽ được thưởng... ”. Và 10 điều phạt, trong đó có: “Trộm cắp của công sẽ bị xử tử; Hãm hiếp, cướp bóc sẽ bị xử tử”(11). Nhờ vậy đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước ta ngày một trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, số người tốt, người làm được việc không những không thiếu mà ngày một nhiều hơn, giỏi giang, tốt hơn. Lịch sử không chỉ để lại những thành tựu cho người đời sau ngưỡng mộ, ngợi ca, mà quan trọng hơn cả là để lại những bài học cho hậu thế. Tổ quốc ta, nhân dân ta đời đời biết ơn và tự hào về cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại và Tổ quốc ta, Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta lại càng tự hào hơn nữa vì có một gia tài vô giá, về những bài học mà những người làm nên lịch sử cuộc Cách mạng ấy đã để lại. Tầm cao trí tuệ và sự cố kết dân tộc để chống giặc nghèo nàn, lạc hậu, giặc dốt, giặc ngoại xâm là vô cùng quan trọng nhưng quan trọng hơn cả, quyết định nhất vẫn là chống giặc nội xâm - chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, tranh giành địa vị... Vì, như V.I.Lênin đã nói, chính những cái đó có nguy cơ làm tiêu vong sự nghiệp cách mạng. Chính nó là quốc nạn, là nguy cơ, là nguyên nhân cơ bản của tình trạng mất lòng nhân dân, vì mất lòng tin của nhân dân là mất tất cả. PGS. Trần Đình Huỳnh ------------- (1, 2) HCM toàn tập, NXB CTQG, H.2002, tập 2, tr.267, 261. (3) Sđd, tập 3, tr.197-198. (4, 5, 6, 7, 11) Sđd, tập 4, tr.4, 427, 56-57, 58, 163-164. (8, 9) Sđd, tập 5, tr.73, 284. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, H.2006, trang 253, 255, 256, 257.

 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất