V.I.Lênin là
lãnh tụ, người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô nhưng Người còn trực tiếp là Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng dân uỷ.
Với cương vị là người đứng đầu cơ quan quản lý
nhà nước cao nhất, V.I.Lênin đã tổng kết và chỉ ra những vấn đề cơ bản về văn
hoá quản lý, mà theo chúng tôi, những chỉ dẫn đó vẫn đang là bài học có tính
thời sự cấp thiết cho chúng ta hiện nay.
1. Văn hoá
quản lý, sự tự ý thức của chủ thể.
Giành được chủ
quyền quốc gia đã khó, giữ vững và kiến thiết quốc gia lại càng khó hơn. Khó
khăn lớn nhất là ở chính ngay sự tự ý thức của chủ thể quản lý, trong nội bộ tổ
chức bộ máy của Đảng và Nhà nước. Tự ý
thức để đưa văn hóa vào quản lý, để thắng được những lạc hậu, tiêu cực, những
cản trở - những “kẻ thù bên trong” như Lênin và Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Đó là, tính
“kiêu ngạo cộng sản” của không ít đảng viên của đảng cầm quyền. Họ “tưởng rằng chỉ bằng những pháp
lệnh cộng sản là có thể giải quyết được tất cả mọi nhiệm vụ của mình. Khi họ là
đảng viên của một đảng chấp chính và là nhân viên công tác ở một cơ quan nhà
nước nào đó, thì trên cơ sở đó họ nghĩ rằng điều đó làm cho họ có thể nói đến
những kết quả…”(1).
Đó là, trình độ
văn hoá thấp kém (văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lý, văn hoá thực hành dân
chủ). Sự thiếu hụt kiến thức đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả của lãnh đạo và
quản lý bởi nó không có triết lý, không có chính kiến nhất quán mà chỉ là sự chắp
vá, sự lặp lại những kinh nghiệm của “ngày hôm qua” hoặc là sự bắt chước lố
bịch. Đối với một xã hội dân chủ - mà chúng ta muốn xây dựng nó cao hơn chế độ
dân chủ tư sản - nhưng lại thấp kém về văn hoá thì nhà lãnh đạo và quản lý chỉ
có thể nhận được “những tin đồn đại, những chuyện nhảm nhí, những chuyện hoang
đường, những thiên kiến, chứ không phải chính trị”(2).
Đó là, quan liêu
xa thực tế, xa cấp dưới và xa dân, chỉ làm việc theo kiểu bàn giấy; là không
biết “tính toán tiền nong cho cẩn thận và thành thực”; là không chịu “chi tiêu
tiết kiệm”, là “lười biếng”, “tham ô” và không “làm theo kỷ luật”(3). Chính vì
vậy mà tệ tham nhũng và nạn hối lộ khuynh đảo cả bộ máy chính quyền các cấp, và
rằng: “Nếu còn có một hiện tượng như nạn hối lộ, nếu còn có thể hối lộ được…”
thì “mọi biện pháp đều sẽ lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại
kết quả gì cả. Một đạo luật chỉ có thể đưa đến kết quả xấu hơn, nếu trên thực
tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện nạn hối lộ còn được dung thứ và đang
thịnh hành”(4).
2. Văn hoá
quản lý, năng lực và bản lĩnh của người thủ trưởng
Quản lý là một
nghề, phải được đào tạo vừa theo chiều rộng (kiến thức chung về chính trị, kinh
tế, xã hội), vừa theo chiều sâu (kiến thức chuyên ngành) để quản lý “vững về
chính trị, giỏi về chuyên môn” như Hồ Chí Minh vẫn nói. Nhà quản lý vừa phải biết rõ lĩnh vực mình quản lý lại vừa
phải biết chỉ huy, điều hành, hướng dẫn và kiểm tra công việc của cấp dưới.
Quản lý phải dựa vào tổ chức và bộ máy nhưng người thủ trưởng phải tự mình kiểm
tra những khâu, những việc trọng yếu và có dũng khí để chấn chỉnh, khi cần thì
thay ngay những người không đủ uy tín và khả năng làm việc, tuyệt đối không
được lề mề, thiên vị, vì nể cá nhân, bất kể người đó là ai, đã có quá khứ “oanh
liệt” như thế nào. Khi làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dân uỷ, kiểm tra thấy nữ
đồng chí Un-nich (đảng viên Đảng cộng sản (b) Nga từ năm 1909, những năm
1914-1924 là chuyên viên Ban thư ký của Hội đồng Bộ trưởng dân uỷ) đã không
chấp hành đúng quy chế lại tuỳ tiện thay đổi hình thức và chế độ làm việc; còn
Xmô-lin Ni-cốp và Dăc-cơ - 2 cán bộ phụ trách Un-nich - thì làm việc tắc trách,
thiếu kiểm tra đôn đốc chu đáo lại tự ý ra các quy định không đúng thẩm quyền,
Lênin đã thể hiện một thái độ kiên quyết: “Tôi tuyệt đối không cho phép làm như
thế. Chỉ có các Phó chủ tịch, cùng ký
tên, mới có quyền ra lệnh và cho phép thay đổi… Nếu người nào có một sự thay
đổi nào khác thì sẽ bị đuổi khỏi chức vụ”(5). Tiếp đó, Người ra lệnh cho các bộ
trưởng phải chịu trách nhiệm kiểm tra cụ thể công việc và báo cáo công việc một
cách chính xác. “Nếu không chấp hành đúng đắn, những người này sẽ bị trừng phạt
thẳng tay, bị bắt giam hoặc cách chức theo lệnh của các phó chủ tịch. Còn nếu
Bộ trưởng dân uỷ không chấp hành nghiêm chỉnh thì sẽ bị cảnh cáo… Theo dõi công
việc này - một cách thật nghiêm túc - là nhiệm vụ của Chánh văn phòng Hội đồng
Bộ trưởng dân uỷ và thế nào tôi cũng cách chức nếu việc này không được chấp
hành nghiêm chỉnh một trăm phần trăm.
Nhiệm vụ là làm
cho các bộ dân uỷ quen với tác phong đúng đắn, bằng cách tống vào nhà lao hoặc
đuổi những người chấp hành không đúng đắn”(6). Người còn nói rõ đó là quy định
chung cho tất cả các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương.
3. Văn hoá
quản lý, nhận sai và sửa sai.
Nhà quản lý thông
minh không phải là người không bao giờ mắc sai lầm, mà là người biết mau chóng
nhận ra sai lầm đã phạm phải. Chính V.I.Lênin là người đã tự chỉ trích về những
chủ trương thực hiện chính sách cộng sản chủ nghĩa ngay sau Cách mạng Tháng Mười
1917 và cả những thiếu sót khi điều hành bộ máy nhà nước. Cho tới nay, thực
tiễn đã chứng tỏ rằng việc đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP) là một quyết định
sửa chữa sai lầm mang dấu ấn của một nhà lý luận thiên tài và một nhà quản lý
vĩ đại. Trong việc đề bạt, sử dụng, thay thế cán bộ, V.I.Lênin cũng đã có nhiều
lần tự nhận một cách công khai, minh bạch về những sai lầm của mình và sửa sai
một cách khẩn trương để người tốt được minh oan, kẻ xấu bị thải hồi. Xin nêu
một ví dụ: năm 1922 do đánh giá sai, Hội đồng Bộ trưởng dân uỷ đã loại bỏ Xnô-sê-côp
khỏi chức Thứ trưởng Bộ Tài chính vì đồng chí ấy có ý kiến mới về xây dựng tổ
chức bộ máy trái với cấp trên, đề bạt An-xki, một cán bộ kém khả năng và không
vững vàng về chính trị thay thế. Sau một thời gian, V.I.Lênin đã thẳng thắn
phát biểu: “Theo tôi, cần phải đuổi An-xki (không dùng vào việc gì được cả);
đưa Cra-xnô-sê-côp trở về. Đồng chí đó đúng… Đồng chí đó sẽ xây dựng bộ máy…”(7).
4. Văn hoá quản lý, tập thể bàn thảo, cá nhân phụ trách.
Nhiều lần
V.I.Lênin nhấn mạnh: “Thảo luận thì thảo luận chung, nhưng trách nhiệm là của
từng người”(8). Người đặc biệt chú ý đến việc bàn thảo dân chủ, bởi vì “cách
mạng thì không thể phát triển được nếu không trải qua một thời kỳ mà mọi người
cùng nhau thảo luận rộng rãi về tất cả mọi vấn đề”(9).
Quyết định quản
lý phải chính xác, không được phép đa nghĩa để tránh tình trạng mỗi người hiểu
một khác vì đó chính là kẽ hở để cấp dưới có thể vận dụng tuỳ tiện. Hội họp là
thảo luận chung, làm rõ vấn đề để có quyết định chính xác. Quyết định đó là trí
tuệ và ý chí của tập thể, nó sẽ trở thành chân lý để mọi người tự giác phục
tùng. V.I.Lênin đã phê phán cách hội họp cho “phải phép”, rút cuộc ý định chủ
quan của người đứng đầu (có thể sai) vẫn được “tập thể thông qua”. Do đó tình
trạng, mà sinh thời Hồ Chí Minh gọi là, trong hội nghị thì im tiếng, ngoài hội
nghị thì nhiều mồm, thầm thì bàn tán, lòng tin giảm, không tạo ra sự đồng thuận
và phấn hứng khi thực thi quyết định. Nhà quản lý cũng phải biết “phân biệt
được cái gì là cần thiết cho các cuộc hội họp thảo luận và cái gì là cần thiết
cho việc quản lý… Đáng tiếc là… phần lớn các cuộc đại hội đều đã được tiến hành
một cách không thực tế”(10).
Với cương vị là
người giữ trọng trách cao nhất của Nhà nước Xô viết, Lênin đã công khai thừa
nhận: “so với tất cả các nước trên thế giới, thì chúng ta chiếm kỷ lục về số
lượng đại hội. Không một nước cộng hòa dân chủ nào lại họp nhiều đại hội như
nước ta, vả lại họ cũng không cho phép họp nhiều đại hội như thế”(11).
Khi đã có quyết
định thì phải thực thi một cách quyết liệt, chặt chẽ, dũng cảm. “Ở đây, không
thể có thứ tình cảm uỷ mị nào cả. Tình cảm uỷ mị cũng tội lỗi không kém gì sự
hèn nhát trong chiến tranh”(12).
Lênin phê bình
các bộ trưởng: “Đáng lẽ phải chịu trách nhiệm về công việc của mình, đáng lẽ
phải đưa ra các quyết định lên Hội đồng Bộ trưởng dân uỷ, với ý thức rằng chính
mình là người chịu trách nhiệm, thì người ta lại nấp sau các ban. Đến thánh
cũng không biết đâu mà lần trong các ban đó, không làm thế nào mà tìm ra được
người chịu trách nhiệm cả; mọi cái đều rối tung và cuối cùng, người ta đưa ra
một nghị quyết trong đó tất cả mọi người đều chịu trách nhiệm”(13).
5. Văn hoá
quản lý và cải cách hành chính.
Cải cách các thể
chế và thủ tục hành chính là việc làm thường xuyên, phải chú ý từ những chi
tiết, tưởng chừng như “nhỏ nhặt” nhưng lại liên quan đến việc chấp hành các
quyết định quản lý. Cần khắc phục tính rụt rè, thủ cựu, bảo thủ nhưng lại hay
“nói to” những vấn đề “lý luận cách mạng” chung chung cao siêu, “xa rời thực
tế”. “Trong toàn bộ lĩnh vực những quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị ta đều
tỏ ra là cách mạng “ghê gớm”. Nhưng về mặt cấp bậc, về mặt tôn trọng những hình
thức và những thể lệ về thủ tục hành chính thì “tính cách mạng” của chúng ta
lại hay nhường chỗ cho tinh thần thủ cựu hủ bại nhất.
…Bởi vậy, cuộc
sống hiện tại của chúng ta là một sự tập hợp hết sức rõ rệt những tính táo bạo phi thường với mọi
tâm lý rụt rè trước những thay đổi nhỏ nhặt nhất”(14).
6. Văn hoá quản lý và pháp luật
Công cụ của nhà
nước dùng để quản lý là pháp luật. Mọi người dù là chủ thể quản lý hay khách
thể quản lý cũng đều phải phục tùng pháp luật. Mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật. Chính nguyên tắc đó sẽ đảm bảo cho xã hội một sự công khai, minh
bạch, dân chủ, công bằng và kỷ cương để phát triển bền vững. V.I.Lênin đã viết
rằng: “Pháp luật Xô viết rất tốt, vì những pháp luật này đã đem lại cho mọi
người cái khả năng chống tệ quan liêu và bệnh lề mề…”(15). Nhưng Người cũng
phàn nàn rằng pháp luật Xô viết vẫn chưa được thực hiện, ít người biết sử dụng
khả năng đó, “không những nông dân mà chính cả một số rất lớn đảng viên cộng
sản cũng không biết dùng pháp luật Xô viết để đấu tranh chống bệnh lề mề và
quan liêu, hoặc ngay cả cái điển hình của Nhà nước Nga là nạn hối lộ”(16). Người cũng chỉ ra rằng căn
nguyên không phải do nước Nga thiếu luật, hoặc thiếu phương tiện tuyên truyền
pháp luật, ngược lại, người ta đã thảo ra nhiều văn bản luật nhưng hô hào suông
mà không nâng cao được trình độ văn hoá của quần chúng và dựa vào sự giúp đỡ
của họ để thực thi pháp luật.
7. Văn hoá quản lý, đoạn tuyệt với chủ nghĩa cơ hội.
V.I.Lênin đặc
biệt quan tâm đến việc làm trong sạch tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ, công
chức. Ngoài đòi hỏi phải thanh trừng ra khỏi tổ chức của Đảng và của các cơ
quan nhà nước những kẻ cơ hội, bọn quan liêu và nhận hối lộ vì chính bọn này đã
làm vẩn đục tình hình để “buông câu trong đám nước đục” và trên thực tế “họ đã
câu được trong đám nước đục ấy đến mức chỉ có những người đui mù trong chúng ta
mới không thấy được là họ đã câu như vậy trên một quy mô rộng lớn tới chừng
nào”(17), Người đòi hỏi phải qua thực tiễn mà đánh giá đạo đức và năng lực thực
tế của cán bộ, công chức, đem so sánh với cấp bậc và chức quyền họ đang giữ.
Mấu chốt của văn
hoá quản lý là vấn đề nhân sự và “Điều kiện đầu tiên của người Cộng sản chân
chính là đoạn tuyệt với chủ nghĩa cơ hội”(18).
Việc dùng người thể
hiện tâm và tầm văn hoá của nhà quản lý.
_____
(1, 2, 4, 8, 9, 10, 11, 12, 18) V.I.Lênin toàn tập,
NXB Tiến Bộ, M.1978, tập 44, tr.217, 218, 207, 208, 22. (3) Sđd, tập 36,
tr.214. (5, 6, 7). Sđd, tập 54, tr.339, 340, 294. (13, 14, 15, 16, 17) Sđd, tập
45, tr.138, 453, 454, 112.
PGS. Trần Đình Huỳnh