Đến cuối năm 2009, toàn Đảng có gần 55.000 tổ chức cơ sở đảng (gần 23.000 đảng bộ cơ sở và 32.000 chi bộ cơ sở), hơn 230.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở với tổng số hơn 3,6 triệu đảng viên. Các tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân; có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nơi thể hiện thường xuyên, toàn diện, trực tiếp và cụ thể nhất quyền làm chủ của nhân dân và mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nơi rèn luyện, bồi dưỡng, quản lý đảng viên và nguồn bổ sung đội ngũ cán bộ cho các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp. Vì vậy, sự phát triển và vững mạnh toàn diện của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển vững mạnh của toàn Đảng, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong tình hình mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định nhiệm vụ trung tâm của cả nhiệm kỳ và mục tiêu cần đạt được là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển”. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ: Trước hết phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; muốn nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng thì trước hết và bắt đầu phải nâng cao năng lực lãnh đạo và chất lượng hoạt động của các chi bộ. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 02-02-2008, về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”. Đây là một nghị quyết chuyên đề rất quan trọng, vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài nhằm xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tất cả các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Qua học tập, quán triệt nghị quyết này, các cấp ủy đảng và đông đảo cán bộ, đảng viên đều cho rằng: Nghị quyết Trung ương đã đánh giá sát, đúng thực trạng tình hình tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay; chỉ rõ những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và những khó khăn, vướng mắc, bất cập ở cơ sở; đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể về tổ chức, cán bộ và cơ chế, chính sách để thực hiện trong những năm tới, trong đó có nhiều nội dung mới, mạnh mẽ và có tính khả thi; việc triển khai thực hiện nghị quyết có nhiều đổi mới, đồng bộ từ Trung ương đến các địa phương, tạo được niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị về triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan ở Trung ương đã khẩn trương nghiên cứu, xây dựng các đề án nhằm cụ thể hóa nội dung nghị quyết để thực hiện: Quốc hội có nghị quyết về thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân ở 67 huyện, 32 quận, 483 phường thuộc 10 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền trong cả nước; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 159-NĐ/CP, ngày 27-12-2005, về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn; chỉ đạo việc nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, ngày 10-10-2003, của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21-10-2003, của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn, Nghị định số 92-NĐ/CP, ngày 22-10-2009, về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; liên Bộ Nội vụ, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH, ngày 27-5-2010, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92 của Chính phủ. Ban Tổ chức Trung ương đã nghiên cứu trình Bộ Chính trị bổ sung, sửa đổi Quy chế bầu cử trong Đảng và Quy định về Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng; trình Ban Bí thư bổ sung, sửa đổi một số quy định về chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp với tình hình mới và xây dựng quy định chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng chưa có quy định; nghiên cứu, ban hành các hướng dẫn về việc thực hiện thí điểm chủ trương đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân ở cấp xã và các địa phương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân; thực hiện thí điểm chủ trương đại hội đảng bộ cơ sở trực tiếp bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư và đại hội đảng bộ cấp trên cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy; mô hình tổ chức trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng và tổ chức đảng trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; bổ sung, sửa đổi hướng dẫn về đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm. Ban Tổ chức Trung ương cũng tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về “Tăng cường công tác xây dựng Đảng, các đoàn thể nhân dân trong các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân, doanh nghiệp tư nhân (gọi chung là doanh nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”. Ngoài ra, Ban đã nghiên cứu hướng dẫn về đảng viên làm kinh tế tư nhân và việc kết nạp vào Đảng những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn và có nguyện vọng xin vào Đảng v.v...
Thực hiện sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương đã ban hành chỉ thị, nghị quyết hoặc xây dựng kế hoạch, đề án nhằm cụ thể hóa nội dung nghị quyết của Trung ương để thực hiện. Trong đó, tập trung chỉ đạo việc sắp xếp, kiện toàn mô hình tổ chức của Đảng cho đồng bộ, thống nhất với các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở; đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên, xây dựng tổ chức đảng ở những thôn, bản, trường học, doanh nghiệp... chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên. Nhiều cấp ủy đã tiến hành tổng kết việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở; công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên ở vùng đồng bào Khmer, vùng đồng bào có đạo và trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các tỉnh ủy, thành ủy đã xây dựng kế hoạch và tổ chức Hội thi bí thư chi bộ giỏi ở cơ sở và cấp trên trực tiếp của cơ sở, sau đó tổ chức hội nghị tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm và biểu dương, khen thưởng các bí thư chi bộ giỏi ở cấp tỉnh như Hải Phòng, Hòa Bình, Đảng ủy Công an Trung ương... Cùng với việc thực hiện Nghị quyết của Trung ương về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, các cấp ủy đảng đã triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Bộ Chính trị về thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chỉ thị của Ban Bí thư và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương về “Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” v.v... Do đó, sau hơn ba năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, công tác xây dựng Đảng ở cơ sở đã tạo được sự chuyển biến tiến bộ trên nhiều mặt và đạt được một số kết quả cụ thể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình cơ sở đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, quần chúng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở được triển khai rộng rãi và đem lại một số kết quả tích cực; dân chủ trong Đảng và trong xã hội được mở rộng và phát huy hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đội ngũ cán bộ cơ sở được quan tâm chỉ đạo, tạo một số chuyển biến tích cực và kết quả bước đầu. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được tăng thêm về số lượng và chất lượng; trình độ, kiến thức các mặt không ngừng được nâng lên. Nền nếp và chất lượng sinh hoạt chi bộ có tiến bộ so với trước. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên bước đầu đã phản ánh đúng thực tiễn hơn. Công tác kết nạp đảng viên được các cấp ủy quan tâm chỉ đạo, đạt được một số kết quả, từng bước thu hẹp số thôn, làng, ấp, bản, trường học, doanh nghiệp... chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai thực hiện rộng khắp ở cơ sở, đem lại kết quả bước đầu, góp phần nâng cao nhận thức, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực tốt, từng bước thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đã đạt được nêu trên, công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục là: Nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng, chưa dành thời gian, công sức để tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng. Không ít tổ chức cơ sở đảng chưa nhận thức và thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng, chưa làm tốt vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở chưa được coi trọng đúng mức. Năng lực nhận thức, khả năng vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của không ít cấp ủy cơ sở còn yếu, chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở. Nhiều cấp ủy, đảng bộ, chi bộ cơ sở chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; chưa coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm việc. Bệnh thành tích, dân chủ hình thức còn nặng; tệ quan liêu, xa dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân còn diễn ra ở nhiều nơi. Một bộ phận không nhỏ đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc Đảng, tự phê bình và phê bình yếu. Tình trạng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên rất đáng lo ngại; tệ tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nhiều cơ sở còn bị buông lỏng. Cấp ủy và chi bộ chưa nắm chắc tình hình tư tưởng và phẩm chất của cán bộ, đảng viên; chưa có những giải pháp cụ thể để ngăn ngừa, đấu tranh và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa khắc phục căn bản được bệnh thành tích. Công tác kết nạp đảng viên vẫn còn chú ý nhiều đến số lượng, chưa chú trọng đúng mức chất lượng; số đảng viên mới được kết nạp ở địa bàn dân cư là công nhân lao động trong các thành phần kinh tế còn ít.
Để thực hiện có kết quả Nghị quyết Trung ương 6, các cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần quán triệt sâu sắc các quan điểm sau:
Thứ nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở cơ sở, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu; lấy chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp của toàn bộ công tác xây dựng Đảng.
Thứ hai, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc tham gia xây dựng Đảng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mọi tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát của nhân dân.
Thứ ba, xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư đảng bộ, chi bộ cơ sở, người đứng đầu và các cấp ủy viên ở cơ sở.
Trước mắt và trong thời gian tới, các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung cụ thể sau đây:
Một là, chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức tốt đại hội các tổ chức cơ sở đảng theo đúng yêu cầu Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 04-8-2009, của Bộ Chính trị về “Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”. Sau đại hội ở mỗi cấp, các cấp ủy cần khẩn trương bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc; phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cấp ủy viên; cụ thể hóa nghị quyết đại hội thành chương trình công tác toàn khóa của ban chấp hành; xác định những nhiệm vụ trong tâm, trọng điểm và xây dựng kế hoạch công tác cụ thể trong từng thời gian để chỉ đạo thực hiện, đưa nghị quyết đại hội vào cuộc sống. Đẩy mạnh các phong trào thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của địa phương, đơn vị, lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ cấp trên và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Hai là, tiếp tục sắp xếp, kiện toàn và hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng cho đồng bộ, thống nhất với các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở, vừa tạo được mô hình tổ chức chung trong toàn Đảng, vừa có những mô hình tổ chức phù hợp với những nơi có tính đặc thù. Những nơi còn tình trạng đảng bộ cơ sở trong đảng bộ cơ sở, thì cấp ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở nghiên cứu giao một số quyền cấp trên cơ sở cho đảng ủy cơ sở hoặc thành lập đảng bộ bộ phận, dưới đảng ủy bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
Ba là, đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển tổ chức đảng và kết nạp đảng viên mới, nhất là ở những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên. Cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng cần phân công cấp ủy viên và đảng viên là cán bộ lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể phụ trách từng đơn vị. Cấp ủy cơ sở giao nhiệm vụ cụ thể cho các chi bộ phân công đảng viên phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào Đảng hoặc luân chuyển cán bộ, đảng viên từ nơi khác đến để góp phần thành lập chi bộ và giúp đỡ quần chúng, tạo nguồn kết nạp đảng viên. Chú trọng nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên mới, khắc phục tình trạng chạy theo thành tích, số lượng, hạ thấp tiêu chuẩn. Những đảng viên làm việc ổn định (từ một năm trở lên) trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải chuyển sinh hoạt đảng về nơi làm việc (nếu nơi đó có tổ chức đảng) để đảng viên tham gia sinh hoạt đảng và thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Bốn là, tích cực thực hiện việc trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa và từng bước nhất thể hóa cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Cần đẩy mạnh việc tuyển chọn, tiếp nhận và đưa những sinh viên là người địa phương đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã, phường, thị trấn làm công chức dự bị để rèn luyện, thử thách, tạo nguồn cán bộ lâu dài. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn. Các tỉnh miền núi, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, cần tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường phổ thông dân tộc nội trú; phối hợp với các quân khu lựa chọn những thanh niên người dân tộc thiểu số đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, tiếp tục đưa đi đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở.
Năm là, các cấp ủy, đảng bộ, chi bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở thực hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định kỳ. Nội dung sinh hoạt cần tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của chi bộ và quyền lợi, trách nhiệm của đảng viên; nâng cao trình độ, nhận thức, tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và các nhiệm vụ được phân công. Thường xuyên liên hệ, kiểm điểm việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, kịp thời nêu gương những đảng viên có thành tích xuất sắc và nhắc nhở, giúp đỡ những đảng viên có thiếu sót hoặc gặp khó khăn. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ, sự vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Sáu là, các cấp ủy cấp trên phải tập trung chỉ đạo và nắm chắc tình hình cơ sở, phân công các cấp ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở, nhất là những nơi có khó khăn. Cán bộ lãnh đạo, quản lý và cấp ủy viên cấp trên phải bố trí thời gian gặp gỡ đảng viên tại cơ sở, giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của đảng viên, bảo vệ những người trung thực, thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng để cập nhật kiến thức mới và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cấp ủy viên cơ sở; nâng cao năng lực nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của cấp ủy cấp trên và năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp mình; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị ở cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao.
Trần Lưu Hải
Ủy viên Trung ương Đảng,
Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương