Ngành công
nghiệp Thủ đô tăng trung bình 8,3%/năm, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo
chiếm tỷ trọng chủ yếu (khoảng 91%) và duy trì tăng 8,4%. Công nghiệp công nghệ
cao dần phát triển ở một số lĩnh vực như: Điều khiển kỹ thuật số, tự động hóa,
rô-bốt, na-nô, plasma, la-de, công nghệ sinh học… Hạ tầng các khu, cụm công
nghiệp tiếp tục được phát triển với 17 khu công nghiệp, khu công nghệ cao. Sản
xuất tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề được khuyến khích phát triển với
1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó 305 làng nghề được công nhận, thu hút
hàng chục nghìn lao động làm việc.
Sản xuất công nghiệp Hà Nội đang có dấu
hiệu phục hồi mức tăng trưởng, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo. Bên cạnh
đó, thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp cũng được quan tâm, hầu hết các cụm
công nghiệp hiện có đã được lấp đầy. Hiện nay, thành phố đang chú trọng đẩy mạnh
phát triển thêm các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp mới.
Thành phố đã và đang phát triển 17 KCN, khu công nghệ
cao với tổng diện tích gần 3.500ha. Trong đó, 9 KCN với tổng diện tích 1,264ha
đang hoạt động ổn định. Tỷ lệ lấp đầy trên 95% đất công nghiệp gồm các KCN
Thăng Long - Nội Bài; Thạch Thất - Quốc Oai; Nam Thăng Long; Sài Đồng B; KCN Hà
Nội - Đài Tư; Quang Minh I; Phú Nghĩa; Khu công viên công nghệ thông tin...
Nhằm tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất - kinh
doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (DN) hoạt động trong các KCN - khu
công nghệ cao, ban quản lý các KCN, khu chế xuất Hà Nội đã nỗ lực thực hiện cải
cách thủ tục hành chính, hỗ trợ, tháo gỡ những khó khăn đối với các DN đang hoạt
động tại các KCN. Đồng thời, thành phố cũng thực hiện có hiệu quả các chính sách
ưu đãi, nhất là về thuế, tín dụng, đất đai, nhân lực. Tăng cường xúc tiến đầu
tư, thực hiện các giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và
ngoài nước cho đầu tư phát triển… Những nỗ lực cải cách này đã góp phần thu hút
FDI của thành phố tăng mạnh.
Năm 2019, thành phố đã phát huy hiệu quả vai trò quản
lý Nhà nước, chú trọng phát triển các khu, cụm công nghiệp hiện đại, tiên tiến
về lĩnh vực công nghiệp trên địa bàn, triển khai thực hiện nhiều giải pháp để
duy trì và thúc đẩy sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ, khuyến
khích các doanh nghiệp trong lĩnh vực này phát triển, tham gia sâu hơn vào chuối
cung ứng toàn cầu, tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản xuất đã góp phần tác động đến
tăng trưởng toàn ngành công nghiệp trên địa bàn.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) năm 2019 tăng
8,5% so với năm 2018, trong đó: Ngành khai khoáng giảm 21,6%; ngành chế biến,
chế tạo tăng 8,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,7%; ngành cung cấp
nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 8,0%.
Một số ngành công nghiệp chủ lực chiếm tỷ trọng lớn
trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số IIP đạt mức tăng trưởng khá
cao so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,8%; sản
xuất đồ uống tăng 12,7%; sản xuất thuốc lá tăng 7,4%; sản xuất sản phẩm điện tử,
máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 19,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và
plastic tăng 29%. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng thấp hơn mức bình quân
chung hoặc giảm so với cùng kỳ như: Sản xuất thuốc lá tăng 7,4% so với cùng kỳ
năm trước; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 0,3%; sản xuất kim loại tăng
2,6%; dệt giảm 6%; sản xuất các phương tiện vận tải khác giảm 6,1%.
Trong năm 2019, một số sản phẩm công nghiệp tăng cao
so với năm trước như: Xe đạp hoàn chỉnh đạt 27 nghìn chiếc, tăng 8,0%; quần áo
dệt kim đạt 19 triệu cái, tăng 5,6%; động
cơ điện đạt 51,2 nghìn chiếc, tăng 3,4%... Bên cạnh đó, có một số sản phẩm giảm
như: Bít tất đạt 15.892 nghìn đôi, giảm 2,6%; bóng đèn tròn đạt 37,6 triệu chiếc,
giảm 4,3%; lắp ráp ô tô đạt 15.372 chiếc, giảm 14%; lắp ráp xe máy đạt 753,5
nghìn chiếc, giảm 15,8%.[1]
Nhìn tổng
quát, Hà Nội có 8 khu công nghiệp, 1 khu công nghệ cao, 48 cụm công nghiệp và
trên 16.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm ngoài các khu, cụm công nghiệp;
trong đó hiện còn 1 khu công nghiệp và 30 cụm công nghiệp không có hệ thống xử
lý nước thải; có 2.580 bệnh viện, phòng khám; gần 58.000 cơ sở sản xuất chế biến,
kinh doanh thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, kích thích tăng trưởng; trên
5.300 cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố... đang gây ảnh hưởng trực tiếp tới
môi trường. Thành phố đã và đang xây dựng các giải pháp để bảo vệ môi trường,
giảm tác hại của biến đổi khí hậu, trong đó có việc giải quyết vấn đề ô nhiễm
không khí, rác thải, bảo vệ nguồn nước sạch và vấn đề phát triển nền kinh tế
xanh gắn với năng lượng xanh.
Hiện nay, Hà
Nội có 175.000 DN, với tốc độ tăng trưởng là 2.000 DN một năm thì bộ máy các cơ
quan chức năng không thể đủ để kiểm tra, giám sát lĩnh vực môi trường của các DN.
Các quy định về bảo vệ môi trường sẽ được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngăn chặn
các dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu, loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường cao; hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến sản xuất
sạch hơn… Cùng với đó là đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; tăng cường
điều tra, kiểm kê nguồn thải, kiểm soát các hoạt động nhập khẩu phế liệu làm
nguyên liệu sản xuất, hoạt động vận chuyển và xử lý chất thải…
Nhìn một cách tổng quát, mặc dù tốc
độ tăng, quy mô kinh tế cơ bản đạt chỉ tiêu Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố
lần thứ XVI đề ra nhưng vẫn chưa tạo được “đột phá lớn” và chưa tương xứng
với tiềm năng, thế mạnh của thành phố. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
kinh tế Thủ đô chưa cao. Công nghiệp phát triển còn thiếu ổn định.
Một số chỉ
tiêu quan trọng như xử lý ô nhiễm môi trường không khí, kiểm soát và xử lý nước
thải... chưa đạt kế hoạch. Tiến độ triển khai một số dự án hạ tầng kỹ thuật
thiết yếu (công trình giao thông, các nhà máy xử lý rác thải, nước thải...) còn
chậm. Chương trình di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường trong khu vực nội đô
chưa có nhiều chuyển biến; công tác quản lý, phát hiện, xử lý các vi phạm môi
trường, nhất là môi trường nước, không khí chưa đáp ứng yêu cầu, để phát sinh
nhiều vụ việc phức tạp, nổi cộm, chậm được xử lý, gây bức xúc dư luận.
Những hạn
chế, yếu kém có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan nhưng nguyên nhân
chủ quan là chủ yếu. Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành ở một số cấp, ngành,
lĩnh vực chưa thực sự quyết liệt, thiếu năng động, sáng tạo, có việc còn trì
trệ. Một số cán bộ, đảng viên còn thiếu trách nhiệm, ngại va chạm, đùn đẩy, né
tránh. Sự phối hợp giữa các sở, ngành và giữa sở, ngành với quận, huyện, thị xã
còn bị động, thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao, nhất là đối với những việc phải
giải quyết theo cơ chế liên ngành. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm
của một số đơn vị chưa thường xuyên, chưa đủ mạnh trong việc răn đe, ngăn chặn,
xử lý các sai phạm. Việc nắm bắt tình hình, nhất là các yếu kém ở cấp cơ sở
chưa được cấp ủy cấp trên trực tiếp quan tâm đúng mức. Các cơ chế, chính sách,
giải pháp cho một số vấn đề lớn của thành phố về ô nhiễm môi trường... còn chậm
và hiệu quả chưa cao.
Để
khắc phục những hạn chế, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, tạo ra những bước chuyển biến căn bản trong công tác bảo vệ môi
trường, Thành ủy Hà Nội đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TU về tăng cường công
tác bảo vệ môi trường trên địa bàn đến năm 2020 và những năm tiếp theo với
những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, cụ thể.
Với
mục tiêu tạo chuyển biến căn bản trong công tác bảo vệ môi trường, TP. Hà Nội
yêu cầu các cấp, ngành tăng cường năng lực và phối hợp trong việc giải quyết những
vấn đề ô nhiễm môi trường. Việc triển khai, thực hiện phải tiến hành nghiêm
túc, thường xuyên, đồng bộ, gắn với việc thực hiện các chương trình công tác
lớn của Thành ủy và chủ trương, chính sách của Thành ủy, HĐND và UBND thành
phố. Một số giải pháp chủ yếu:
Một là, tăng cường vai trò lãnh
đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của các cấp chính quyền, sự tham gia chủ động,
tích cực của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc kết hợp hài hòa phát
triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường
Các cấp, các ngành phải xác định bảo vệ môi trường vừa
là mục tiêu, vừa là nội dung cơ bản của phát triển bền vững và cần phải thể hiện được những mục tiêu
bảo vệ môi trường trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển
công nghiệp của từng địa phương, từng ngành cụ thể. Các cấp ủy đảng cần quán
triệt áp dụng cơ chế phát triển bền
vững như là cầu nối giữa các bộ, ngành, địa phương, chỉ đạo việc liên kết các
vấn đề môi trường với các vấn đề phát triển công khi ban hành các quy hoạch,
quyết định phát triển.
Trong tình hình hiện nay của Thủ đô, bảo vệ môi trường
kết hợp với phát triển công nghiệp và ổn định xã hội là nhiệm vụ vừa cấp bách,
vừa phức tạp, có tính chất đa ngành và liên vùng cao. Vì vậy, việc nâng cao vai
trò lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà
nước, sự tham gia tích cực của mặt trận Tổ quốc cũng như của các tổ chức chính
trị - xã hội, đoàn thể và cộng đồng dân cư chính là chìa khóa đoàn kết, giải
quyết những khó khăn bước đầu và tạo nên sự đồng thuận để cùng thực hiện các
giải pháp được đề ra trong kết hợp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường.
Hai là, nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên, nhân dân và doanh nhân Thủ đô về tầm quan trọng của việc kết
hợp hài hòa phát triển công nghiệp với
bảo vệ môi trường: Làm tốt việc
lồng ghép nội dung giáo dục môi trường vào chương trình giảng dạy ở các cấp
học, ngành học...; tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức cho tất cả mọi đối
tượng như cán bộ, đảng viên, nhân dân, doanh nhân,... về vai trò, ý nghĩa của
việc phát triển bền vững cũng như mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với
bảo vệ môi trường; phối hợp liên ngành giữa các ngành, các tỉnh, thành phố, cơ
quan thông tấn, báo chí trong việc đôn đốc, chỉ đạo thường xuyên hoặc xây dựng
các chuyên trang, chuyên mục thông tin về môi trường, giáo dục ý thức bảo vệ
môi trường trên nhiều loại hình phương tiện thông tin đại chúng; trước khi xây dựng các quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển công nghiệp, môi trường cần tiến hành tham vấn cộng
đồng và công khai các thông tin nhằm tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng về
các định hướng phát triển của địa phương, qua đó có thể xác định và sàng lọc
được những điểm mạnh - yếu, thuận lợi - bất lợi về kinh tế - xã hội - môi
trường của các dự án; tăng cường phối hợp với các tổ chức đoàn thể: ủy ban mặt
trận Tổ quốc, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân, hội cựu chiến binh…
trong công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của hội viên, đoàn
viên về vai trò, tầm quan trọng của việc phát triển bền vững cũng như kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp với
bảo vệ môi trường.
Ba là, đẩy
mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ cao vào tăng trưởng kinh tế xanh để góp
phần bảo vệ môi trường
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao
nhận thức của toàn dân, trong các ngành, các cấp về vai trò nền tảng và động
lực của khoa học và công nghệ trong việc xây dựng đất nước, trong quá trình
tiến hành CNH, HĐH cũng như xây dựng một nền “công nghiệp sạch”, nền “kinh tế
xanh” cho địa phương. Có nhiều cơ chế, chính sách tài chính, kinh tế khuyến
khích và tạo lập môi trường phát triển lành mạnh cho hoạt động khoa học và công
nghệ.
Nghiêm túc thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, cần
phát hiện và nhân rộng những mô hình,
cách làm hay về phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là các mô hình tự
phát triển khoa học và công nghệ trong mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích phát
triển các sáng kiến trong sản xuất giúp tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, giảm tác động và phát thải ra môi trường tự nhiên.
Có chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài
khoa học và công nghệ, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, đào tạo nhân lực cho các cơ sở
khoa học và công nghệ, nhằm tăng cường cả về chất lượng và số lượng cho đội ngũ
này. Cần tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học và công nghệ đáp ứng nhu
cầu nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới phục vụ phát triển bền vững tại địa
phương, tiến tới hội nhập với đất nước, khu vực và thế giới.
Bốn là, quy hoạch phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp để phát triển công nghiệp đồng thời làm tốt hơn công tác bảo vệ môi trường
Thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp phù hợp với
yêu cầu bảo vệ môi trường: Trong công
tác quy hoạch phát triển công nghiệp Thủ đô cần thiết phải đưa các chỉ số tác
động môi trường vào trong tính toán sự tăng trưởng GDP. Có cách thức, biện pháp
thay đổi thái độ và phương pháp tác động vào tự nhiên để đạt mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, đồng thời hạn chế mức độ suy thoái môi trường. Cần tiếp tục quy
hoạch và triển khai thực hiện các đề án về bảo vệ môi trường, đặc biệt các đề
tài ứng dụng công nghệ sạch hơn, công nghệ tiên tiến ít chất thải, công nghệ
sinh học, công nghệ xử lý môi trường phục vụ cho sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, thương mại, dịch vụ...
Chuyển dịch cơ cấu để phát triển công nghiệp đồng thời
làm tốt hơn công tác bảo vệ môi trường: Cần
thực hiện mô hình tăng trưởng có sự kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều
sâu, trong đó, xu hướng chủ đạo là phát triển công nghiệp theo chiều sâu thông
qua việc đầu tư nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học và công nghệ của khu vực, tích cực
khuyến khích hoạt động chuyển giao các công nghệ mới, công nghệ sạch và ứng
dụng rộng rãi trong sản xuất tại các địa phương. Cần tăng cường nâng cao chất
lượng, tăng năng suất và hiệu quả của quá trình phát triển công nghiệp.
Thiết lập các mục tiêu dài hạn của tăng trưởng, chú
trọng đầu tư phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ và
bền vững; hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ
tầng, tăng cường chất lượng nguồn nhân lực nhằm khơi nguồn cho đầu tư và tăng
trưởng dài hạn. Mô hình tăng trưởng phải bền vững, vì sự phát triển chung của
con người, trong đó, cần có chính sách sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, chú trọng nâng cao khả năng tái sinh tài
nguyên, chủ động phòng chống, ngăn ngừa và khắc phục ô nhiễm môi trường từ các
nguồn có khả năng gây ô nhiễm.
Năm là, hoàn thiện hệ thống chính sách, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kết
hợp phát triển công nghiệp với bảo vệ
môi
trường của các tổ chức, cá nhân, nhất là các doanh nghiệp,
đơn vị kinh tế trên địa bàn
Tăng cường năng lực quản lý phát triển bền vững của các cơ quan
quản lý nhà nước trên địa bàn Thủ đô. Căn cứ vào hệ thống chỉ tiêu đánh giá
phát triển bền vững của quốc gia, mỗi địa phương cần cụ thể hóa hệ thống chỉ
tiêu đánh giá cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội - môi trường của địa
phương mình nhằm hỗ trợ cho kinh tế địa phương phát triển trong khi vẫn duy trì
và bảo đảm những chỉ tiêu về môi trường.
Tăng
cường trách nhiệm và năng lực giám sát, thanh tra, kiểm tra việc bảo vệ môi trường
của các tổ chức đảng, tổ chức kinh tế - xã hội - chính trị - nghề nghiệp của
các địa phương, thông qua đó san sẻ trách nhiệm này bằng việc xã hội hóa hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”.
Hình
thành cơ chế giám sát hữu hiệu hơn đối với việc thực thi phát triển bền vững tại
các địa phương, trong đó, đóng vai trò quyết định trong cơ cấu giám sát là các
cấp ủy đảng, HĐND các cấp, các tổ chức đoàn thể
xã hội, các tổ chức kinh tế - xã hội - nghề nghiệp và các cộng đồng dân cư.
Có
quan điểm chung trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh về vấn đề bảo vệ môi trường có tính chất liên tỉnh, tính
chất vùng bởi hoạt động phát triển công nghiệp không thể thành công nếu được thực
hiện một cách đơn lẻ, ngược lại, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển
công nghiệp với bảo vệ môi trường cần xây dựng được một cơ chế hoạch định chính
sách, chiến lược, dự án phát triển kinh tế - xã hội - môi trường có tính chất
liên ngành, liên tỉnh, liên vùng nhằm tạo điều kiện phát huy hiệu quả của các dự
án, các hoạt động bảo vệ môi trường trên diện rộng cũng như huy động tối đa các
nguồn lực hỗ trợ trong phát triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Thành uỷ Hà Nội (2017): Nghị quyết về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn TP. Hà
Nội đến năm 2020 và những năm tiếp theo, số 11-NQ/TU ngày 31-5-2017.
2- HĐND TP. Hà Nội (2012): Nghị quyết về quy hoạch phát triển công nghiệp TP. Hà Nội đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030, số 01/2012/NQ-HĐND ngày 5-4-2012.
3- UBND TP. Hà Nội (2015): Kế hoạch thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn TP. Hà Nội, số 221/KH-UBND ngày
21-12-2015.
4- UBND TP. Hà Nội (2017): Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31-8-2016 của
Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường,
số 04/KH-UBND ngày 10-1-2017.
[1]
Cục Thống kê Hà Nội: Niên giám thống kê TP. Hà Nội 2019, Nxb. Thống kê 2020, tr.437-438.
ThS. Đặng Thị Hồng Hoa
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh