Cách mạng Tháng Tám là một sự kiện vĩ đại, mở ra bước ngoặt lớn và ghi thêm vào lịch sử dân tộc những trang chói lọi. Nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bản đồ thế giới phải được vẽ lại vì sự ra đời của một nhà nước mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bài học lớn của Cách mạng Tháng Tám là bài học Đại đoàn kết toàn dân. Sự Đoàn kết vĩ đại đã làm hồi sinh cả một dân tộc.
Năm 1941, trước tình hình biến chuyển mau lẹ của thế giới, Bác Hồ đã trở về Pác Bó trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng (5-1941) và xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Việt Nam lúc này.
Ngày 6-6-1941, trong bức thư “Kính cáo đồng bào” với tên Nguyễn Ái Quốc, Bác viết:
“Bảy tám mươi năm nay dưới quyền thống trị của giặc Pháp, chúng ta luôn luôn tranh đấu giành quyền tự do… Việc lớn chưa thành không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực đồng tâm.
Nay cơ hội giải phóng đến rồi… Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết”(1).
Tháng 8-1945, trong “Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa” Bác Hồ lại viết:
“Hỡi Đồng bào yêu quý!
Bốn năm trước đây, tôi có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết, vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP TỰ DO”(2).
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp. Trong buổi lễ kỷ niệm Quốc khánh 2-9 đầu tiên của nước ta tổ chức tại Pa-ri do Hội Liên hiệp Việt kiều và Hội Hữu nghị Pháp - Việt tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc một bài diễn văn bằng tiếng Pháp. Sau khi cảm ơn các bạn bè Pháp và nước ngoài đã đến dự, Bác nói:
“Tôi xin long trọng bày tỏ sự kính trọng đối với nhân dân Việt Nam anh dũng của chúng ta, đã nêu cao lý tưởng dân chủ và đã không lùi bước trước bất kỳ sự hy sinh nào để bảo vệ tự do của mình.
Chính là sự đoàn kết, đoàn kết hoàn toàn và không gì phá vỡ nổi của toàn thể nhân dân chúng ta đã khai sinh ra nước Cộng hòa của mình”(3).
Và trong suốt cuộc Cách mạng, nói đến “Đại đoàn kết” là chúng ta lại nhớ ngay đến Bác Hồ kính yêu!
Thuở sinh thời, Bác đi tới đâu là ở đó vang lên bài “Kết đoàn”: Kết đoàn chúng ta là sức mạnh. Kết đoàn chúng ta là sắt gang… Nói chuyện với các cụ phụ lão, với thanh niên, với các cán bộ, đảng viên, với quân đội, công an, với phụ nữ và cả các em nhi đồng…, ở tầng lớp nào, lứa tuổi nào, Bác cũng đều dặn dò: Phải đoàn kết, yêu thương lẫn nhau…
Rất nhiều lần, Người nói với chúng ta: Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Rất nhiều lần, trong những bài thơ vận động cách mạng của mình, Bác đều nói đến chữ “đồng”:
“Khuyên ai nên nhớ chữ đồng
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”(4).
“Nước nhà giành lại nhờ tài sắt
Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng”(5).
Ngày 14-7-1969, chưa đầy hai tháng trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp và trả lời nữ đồng chí Mác-ta Rô-hát, phóng viên Báo Gran-ma, Cu Ba. Bác nói: “Đồng chí hỏi rằng, theo ý kiến tôi, sức mạnh của nhân dân Việt Nam là ở chỗ nào? Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và ở sự ủng hộ của nhân dân thế giới”(6).
Có lẽ, không một người dân Việt Nam nào lại không thuộc câu thơ của Bác:
“Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết
Thành công, Thành công, Đại thành công”(7).
Trong suốt cuộc đời đấu tranh cho nền độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm đúng theo câu thơ của mình, và Người đã trở thành biểu tượng đẹp đẽ nhất của khối Đại đoàn kết toàn dân.
Đọc những tác phẩm, bài viết, bài nói quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 50 năm, từ năm 1919 đến 1969 trong Hồ Chí Minh toàn tập, các nhà nghiên cứu cho biết các bài viết đề cập đến vấn đề Đại đoàn kết dân tộc của Bác chiếm tới trên 40%. Hai chữ “đoàn kết” luôn xuất hiện trong những bài viết, bài nói của Bác. Có thể nói, Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn, một nội dung xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đoàn kết không phải là điều mới đối với dân tộc Việt Nam. Bác Hồ đã nói: “Đó là truyền thống cự kỳ quý báu của dân tộc ta”.
Trên thế giới không có dân tộc nào gọi người trong một nước là “đồng bào”. Truyền thuyết Mẹ Âu Cơ có lẽ là một truyền thuyết đẹp nhất, một bài học lớn về “con một nhà” của ông cha ta từ nghìn xưa. Chẳng hiểu ai đã sinh ra cái mâm tròn, để cả nhà ngồi chung trong một bữa ăn, cùng dùng chung một bát nước chấm…
Đoàn kết, yêu nước và ý thức cộng đồng đã trở thành đạo lý thường ngày của dân tộc ta. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài/ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” (tục ngữ). Lúc đất nước có giặc ngoại xâm thì “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào…”. Đó là Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi từ thế kỷ XV. Đó cũng là sức mạnh Việt Nam, là truyền thống Việt Nam!
Chính nhờ sức mạnh Đại đoàn kết to lớn đó, mà Cách mạng Tháng Tám đã thành công và dân tộc Việt Nam đã giành được thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Nước ta là một cộng đồng gồm 54 dân tộc anh em. Ngay từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, Bác Hồ đã nói:
“Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xê đăng hay Ba na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”(9). Đối với các tôn giáo, Người nói: “Các tôn giáo ra đời nói chung đều vì mục đích con người, đều nhằm cứu giúp con người thoát khỏi vòng bể khổ, giúp họ sống trong hòa bình và tự do. Chúa giáng sinh là để cứu vớt nhân loại. Chính Chúa là một tấm gương hy sinh vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hòa bình và vì công lý”, “Phật ra đời cũng chính là để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha…” (có nghĩa là đem lại vui sướng cho dân chúng, quên mình vì người khác)(10).
Chính sách Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thu hút được nhiều nhân tài cho đất nước. Những trí thức bậc cao, những nhân sĩ yêu nước, những khâm sai đại thần của chế độ phong kiến, những người làm việc bên cạnh nhà vua của chế độ phong kiến… cũng tự nguyện đi theo Cụ Hồ, đi theo cách mạng. Cụ Phan Kế Toại đã nói: Cụ Hồ đúng là một ngọn núi nam châm khổng lồ! Cái sức hút vĩ đại ấy của Bác chính là chính sách Đại đoàn kết toàn dân của Đảng và Nhà nước ta, mà Hồ Chủ tịch là người tiêu biểu.
Với chính sách Đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng Việt Nam đã viết nên những trang sử vẻ vang. Không ai ngờ rằng, Bản Tuyên ngôn độc lập mà Bác đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử lại được Bác viết trong căn nhà của một nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô. Và năm 1946 khi sang thăm Pháp, Bác Hồ đã trao lại quyền Chủ tịch nước cho một nhân sĩ yêu nước ngoài Đảng là cụ Huỳnh Thúc Kháng với niềm tin tưởng tuyệt đối và với lời dặn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”…
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, chính sách Đại đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục được thực thi. 85 triệu đồng bào trong nước, hàng triệu đồng bào đang sống và làm việc ở ngoài nước cũng mong muốn góp phần xây dựng nước nhà.
Tư tưởng Đại đoàn kết là bài học lớn của Cách mạng Tháng Tám, là một sản phẩm trí tuệ, một bộ phận rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ chỉ đạo cho công tác vận động Cách mạng Việt Nam.
Trước khi đi xa, trong Di chúc của mình, trong khi nói đến rất nhiều công việc quan trọng, Bác đã viết 8 chữ Đoàn kết: Đoàn kết chặt chẽ, Đoàn kết nhất trí, Đoàn kết và thống nhất, Đoàn kết phấn đấu… Đặc biệt, trong phần nói về Đảng, Bác đã nhắc đến 5 chữ Đoàn kết, bởi vì Đoàn kết toàn Đảng chính là nền tảng để Đoàn kết toàn dân.
————-
(1,2,4,5) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2002, tập 3, tr.197-198, 553, 206, 241.
(3) Sđd, tập 4, tr.283
(6) Sđd, tập 12, tr.561
(7) Sđd, tập 1, tr. XIV
Bùi Công Bính