Trong suốt 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thể hiện rõ sự trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đoàn kết, gắn bó, chiến đấu dũng cảm, sáng tạo, cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công hiển hách trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là kết quả tổng hợp được tạo nên từ nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là nhân tố có ý nghĩa quyết định.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định từ rất sớm và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Đó là sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ... bằng một cơ chế, phương thức chặt chẽ, phù hợp. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930), Đảng chỉ rõ phải nhanh chóng "Tổ chức ra quân đội công nông." Trong Nghị quyết đội tự vệ (năm 1935), Đảng xác định: "Luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong tự vệ thường trực," "Các đội trưởng và đảng đại biểu phải hợp tác mà chỉ huy."
Trong lãnh đạo xây dựng, phát triển lực lượng cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Đảng xác định phải làm cho các đội du kích đi đúng "con đường chính trị" của Đảng... Đầu năm 1944, trước yêu cầu thành lập đội quân chủ lực quốc gia, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: "Tổ chức của đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo." Thi hành đúng Chỉ thị của Bác Hồ, chi bộ Đảng của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, lãnh đạo đội thực hiện các nhiệm vụ một cách tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân đội có sự phát triển nhanh về lực lượng. Để giữ vững sự lãnh đạo, Đảng tiếp tục nghiên cứu xác lập, triển khai cơ chế lãnh đạo quân đội: Thành lập Trung ương Quân ủy (tháng 01/1946); thành lập các cấp ủy từ quân khu đến chi ủy; đặt chế độ hai thủ trưởng (quân sự, chính trị) để chỉ huy đơn vị từ cấp khu đến trung đội; lập chế độ chính trị ủy viên đại diện Đảng phụ trách trong quân đội (tháng 10/1948).
Từ thực tiễn tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong kháng chiến, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã ban hành Nghị quyết 07 ngày 20-5-1952, về thực hiện chế độ tập thể Đảng ủy lãnh đạo toàn diện, thủ trưởng quân sự, thủ trưởng chính trị phân công thực hiện theo chức trách, nhằm thực hiện sự lãnh đạo tập thể, thống nhất của Đảng về mọi mặt công tác.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cơ chế trên tiếp tục được thực hiện; nhờ đó, sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội luôn được giữ vững, tăng cường và phát huy được sức mạnh chiến đấu "càng đánh, càng mạnh, càng thắng lợi." Các đơn vị trong toàn quân đều nhận thức đầy đủ và chấp hành nghiêm, thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy được sức mạnh lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng phát huy cao độ trí tuệ, sự sáng tạo của thủ trưởng quân chính trong việc tổ chức thực hiện. Sự lãnh đạo của Đảng đã góp phần quyết định vào thắng lợi của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; đồng thời trở thành truyền thống, kinh nghiệm quý báu của quân đội ta.
Từ năm 1975 đến nay, Đảng ta đã có ba lần đổi mới, bổ sung, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Từ 1975-1982, quân đội vẫn thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng như trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày 15-12-1982, Bộ Chính trị (khóa V) ra Nghị quyết 07 "Về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội." Sau hơn hai năm thực hiện cơ chế 07, Đảng đã sớm phát hiện thấy một số khiếm khuyết, vì thế, ngày 04/7/1985, Bộ Chính trị (khóa V) đã ra Nghị quyết 27 về việc "Tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng."
Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị quyết định khôi phục lại hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội. Toàn quân có Đảng ủy Quân sự Trung ương do Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp lãnh đạo. Cấp ủy các cấp có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện các đơn vị thuộc quyền, theo phạm vi chức năng và nội dung quy định cho từng cấp. Gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 27 (1985-2005) đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức tư tưởng và hành động trong toàn quân đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trước yêu cầu giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội trong thời kỳ mới, ngày 20-7-2005, Bộ Chính trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết 51 về "Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội Nhân dân Việt Nam".
Nghị quyết chỉ rõ : "Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng xây dựng quân đội, đặc biệt là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và của nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống".
Cơ chế lãnh đạo theo Nghị quyết 51 xác định rõ những nội dung cơ bản để định hướng, chỉ đạo, tổ chức hoạt động lãnh đạo của tổ chức Đảng, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, hoạt động của cán bộ chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị trong các đơn vị quân đội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI đã ban hành quy định về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và quy định về tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội.
Các văn bản quan trọng của Đảng đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam mà thường xuyên và trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Sự lãnh đạo đó được thực hiện thông qua hệ thống tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở.
Hệ thống tổ chức đảng trong quân đội gồm Quân ủy Trung ương và đảng ủy quân sự các cấp. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng là Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, các đồng chí Ủy viên do Bộ Chính trị chỉ định. Các cấp ủy đảng từ cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương đến cấp cơ sở do đại hội đảng cùng cấp bầu.
Quân ủy Trung ương nghiên cứu đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; kế hoạch phòng thủ đất nước; phương hướng và biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân; cơ chế lãnh đạo của Đảng với quân đội. Quân ủy Trung ương có trách nhiệm phối hợp và hướng dẫn các cấp ủy trực thuộc Trung ương thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về quân sự, quốc phòng; trực tiếp lãnh đạo xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh. Thông qua các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, Quân ủy Trung ương bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Quân ủy Trung ương thực hiện chế độ quyết định tập thể đối với vấn đề lớn như chủ trương, chương trình, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các biện pháp xây dựng quân đội... Quân ủy Trung ương chỉ đạo Tổng cục chính trị và thông qua Tổng cục chính trị chỉ đạo các đảng bộ và hệ thống chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị nhằm xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, đủ khả năng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, suốt 70 năm qua, nhờ không ngừng bổ sung, hoàn thiện phương thức, cơ chế lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Quân đội trong mọi tình huống, mọi giai đoạn lịch sử. Đó cũng là nhân tố quyết định sự trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta. 70 năm qua, quân đội đã luôn xứng đáng là công cụ bạo lực cách mạng sắc bén, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, Tổ quốc và nhân dân; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, là quân đội của dân, do dân, vì dân; viết nên truyền thống quyết chiến, quyết thắng với nhiều chiến công hiển hách, đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, xứng đáng là quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng.
Trong điều kiện cách mạng mới, trước tình hình thế giới, khu vực và trong nước bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng có nhiều diễn biến phức tạp, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã chấp hành nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm và hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Kết quả nổi bật là: Đã chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược quân sự quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; đánh giá, dự báo, xử lý đúng đắn các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước. Lãnh đạo xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị; chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu được nâng lên.
Quân đội luôn tích cực tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo, khắc phục hậu quả chiến tranh và thiên tai, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, thế trận lòng dân vững chắc, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng. Công tác xây dựng Đảng bộ Quân đội có chuyển biến quan trọng về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Quân đội cũng luôn khẳng định là lực lượng tín nhiệm trong lòng nhân dân. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ được giữ vững, tỏa sáng.
Trong tình hình hiện nay, để tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần coi trọng mấy vấn đề cơ bản sau đây:
Trước hết, cần thống nhất nhận thức bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định để Đảng nắm chắc quân đội trong mọi tình huống. Đảng không những đề ra đường lối quân sự, xác định phương hướng phát triển tiềm lực quân sự, quốc phòng của đất nước, xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và các chủ trương, giải pháp nâng cao sức chiến đấu của Đảng bộ quân đội, mà Đảng còn lãnh đạo việc tổ chức hiện thực hóa quan điểm, đường lối xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng quân đội luôn là lực lượng tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và tham gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý quân đội theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Đảng bộ Quân đội, Quân ủy Trung ương và tổ chức đảng các cấp trong quân đội phải thường xuyên quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng; đồng thời phải làm tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đồng thời giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, bảo đảm mọi quyền lãnh đạo quân đội luôn thuộc về Đảng.
Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo quân đội không thể phân chia cho bất kỳ một cá nhân nào, một lực lượng chính trị nào khác. Nhà nước quản lý quân đội thống nhất chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt đối với quân đội.
Đảng bộ Quân đội phải tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị (khóa IX), Quy định 49 của Bộ Chính trị khóa XI, Quy định 50 của Ban Bí thư khóa XI, Nghị quyết 513 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương). Cấp ủy các cấp cần chấp hành nghiêm sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, đồng thời nghiên cứu, vận dụng những bài học kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị, bảo đảm cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội luôn vận hành thông suốt, đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao của Đảng bộ quân đội và nâng cao hiệu lực của công tác Đảng, công tác chính trị. Trước hết, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao tính chiến đấu, tính hiệu quả của công tác tư tưởng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân; kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức; đồng thời thực sự là lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Tập trung kiện toàn hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu và tính năng động của các tổ chức đảng, đặc biệt là tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo gắn với phân công cá nhân phụ trách; coi trọng việc xây dựng và triển khai quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu; tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao tính chiến đấu, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong từng tổ chức đảng và đơn vị; chủ động triển khai thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát trong từng nhiệm kỳ sát với yêu cầu nhiệm vụ và thực tiễn của từng tổ chức. Tăng cường công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ theo hướng số lượng gắn liền với cơ cấu, bố trí, sắp xếp cán bộ hợp lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
Thứ ba, cần tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với quân đội. Nhà nước quản lý quân đội trên cơ sở thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng (về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang) thành luật pháp, chính sách, kế hoạch; đồng thời cần cải tiến tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, các bộ và cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và địa phương cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước đối với quân đội. Cải tiến phương thức, lề lối làm việc của các cơ quan, đơn vị trong quân đội, xác định rõ nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp vận hành của bộ máy lãnh đạo, quản lý, chỉ huy của các đơn vị quân đội.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, gắn liền với tăng cường sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với quân đội là hai vấn đề then chốt, quan hệ chặt chẽ với nhau, có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng quân đội theo hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại." Đảng, Nhà nước cần bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối lãnh đạo, cơ chế, chính sách quản lý đối với quân đội, chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chỉ huy các cấp, các đơn vị trong quân đội vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công tác quân sự, quốc phòng; xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ tư, phải đẩy mạnh đấu tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình" nói chung và "phi chính trị hóa" quân đội nói riêng của các thế lực thù địch. Thực chất, "phi chính trị hóa" quân đội là thủ đoạn cực kỳ nham hiểm của thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta, tách rời quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho quân đội không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước. Bài học từ Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với chúng ta.
Mọi cán bộ, đảng viên, chiến sỹ quân đội cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng, quân đội ta là quân đội cách mạng, quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng. Mục tiêu chiến đấu của quân đội chính là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam - vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trên cơ sở đó, mỗi quân nhân đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén, sắc sảo và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch; tỉnh táo, kịp thời xử lý các tình huống phức tạp diễn ra trong hoạt động thực tiễn theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không để kẻ địch lợi dụng.
Vấn đề then chốt để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội hiện nay là phải xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Đặc biệt, phải kiên trì, kiên quyết thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội.
Đổi mới và tăng cường công tác dân vận, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Quân đội với nhân dân, củng cố "thế trận lòng dân", tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội. Tập trung nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong quân đội, làm tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, hướng dẫn công tác đảng, công tác chính trị.
Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, ngăn chặn các tệ nạn, tiêu cực từ bên ngoài thẩm thấu, tác động vào bộ đội; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa tinh thần, khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống, góp phần giữ vững phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ." Phát huy vai trò của công tác thông tin, tuyên truyền, báo chí, xuất bản; bám sát nhiệm vụ cách mạng của quân đội, giữ đúng định hướng chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng; tích cực đấu tranh với những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.
Tự hào với truyền thống vẻ vang 70 năm của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn tin tưởng và mong rằng quân đội ta sẽ tiếp tục phát huy phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ," ra sức phấn đấu, rèn luyện, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.