Thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2011
Thảo luận tại hội trường

Năm 2011, dự toán tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 595.000 tỷ đồng, tương đương 26,2% GDP. Nếu tính cả 10.000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010 sang, tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2011 là 605.000 tỷ đồng. Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 725.600 tỷ đồng; mức bội chi ngân sách nhà nước là 120.600 tỷ đồng, tương đương 5,3% GDP.

Các đại biểu Quốc hội cũng tán thành các giải pháp thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 do Chính phủ trình và kiến nghị của Ủy ban Tài chính - Ngân sách trong Báo cáo thẩm tra, đồng thời nhấn mạnh những giải pháp trọng tâm: Thực hiện chính sách tài khoá thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thu, chi ngân sách nhà nước. Trong quá trình điều hành ngân sách nhà nước cần có giải pháp để giảm bội chi năm 2011 xuống dưới 120.600 tỷ đồng (tương đương 5,3% GDP) và giảm dần trong các năm sau. Xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến năm 2020, tầm nhìn 2030, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ và các chính sách khác để góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu về kinh tế - xã hội năm 2011. Dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 cũng yêu cầu Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, tăng cường quản lý công tác thu ngân sách nhà nước, bảo đảm thu đúng, thu đủ theo luật định; giảm hẳn tình trạng nợ đọng thuế, gian lận thuế.

Trường hợp thu ngân sách nhà nước tăng so với dự toán, số vượt thu ngân sách Trung ương được sử dụng ít nhất 30% để giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011. Chính phủ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về phương án phân bổ cụ thể số vượt thu ngân sách Trung ương theo quy định của pháp luật.

Về vấn đề chi ngân sách, dự toán yêu cầu cần quản lý chặt chẽ chi ngân sách nhà nước, triệt để tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách cũng như các nguồn tài chính công khác; khắc phục tình trạng chi chuyển nguồn lớn, chi ngoài dự toán, chi vượt dự toán không đúng thẩm quyền, sai quy định của Luật ngân sách nhà nước và các nghị quyết của Quốc hội. Rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên đầu tư, đầu tư đồng bộ; tập trung bố trí vốn cho các dự án, công trình trọng điểm, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011 - 2012, nhất là ở các địa phương nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đang còn nhận bổ sung lớn từ ngân sách Trung ương.

Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính đối với lĩnh vực sự nghiệp công theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ quan, đơn vị, gắn với cơ chế đặt hàng hoặc giao nhiệm vụ cụ thể. Thực hiện cơ chế giá dịch vụ theo hướng từng bước tính đủ chi phí, đồng thời Nhà nước có chính sách hỗ trợ các đối tượng chính sách, người nghèo; tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các loại hình sự nghiệp; tăng cường quản lý nhà nước đối với các dịch vụ công đã được xã hội hoá.

Trong năm 2011, các đại biểu tán thành với kế hoạch phát hành 45.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư các dự án, công trình trong danh mục do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, đây là nguồn đi vay, đề nghị Chính phủ có kế hoạch, cần đến đâu phát hành đến đó, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, có kế hoạch hợp lý trả nợ gốc và lãi hằng năm; quản lý vốn trái phiếu chính phủ đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến năm 2020, tầm nhìn 2030, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ và các chính sách khác để góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu về kinh tế - xã hội năm 2011. 

Quốc hội cũng đề nghị tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán các khoản chi trong cân đối ngân sách nhà nước và các khoản chi được quản lý qua ngân sách nhà nước, vay về cho vay lại, bảo lãnh vay của Chính phủ, các khoản chi từ các quỹ tài chính nhà nước, các khoản vay, tạm ứng của các bộ, chính quyền địa phương. Thực hiện nguyên tắc ngân sách của bộ, ngành, địa phương nào vay, tạm ứng thì ngân sách của bộ, ngành, địa phương đó phải bố trí nguồn để trả, ngân sách Trung ương không bố trí nguồn để trả thay. Khắc phục tình trạng tạm ứng vốn quá lớn, thời gian tạm ứng vốn quá dài hoặc không quy định cụ thể thời gian phải hoàn trả, nhất là đối với các khoản tạm ứng ngân sách năm sau. Quản lý chặt chẽ việc huy động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, kể cả các khoản vay trong và ngoài nước, bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc sử dụng ngân sách, tài sản và nguồn vốn khác của nhà nước.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất