Đổi mới công tác cán bộ và cơ chế kiểm soát quyền lực
Các tác giả đoạt Giải Khuyến Khích - Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng lần thứ III- năm 2018.

Đổi mới công tác cán bộ và cơ chế kiểm soát quyền lực - Bài 1: Xuất phát từ lợi ích của nhân dân

LTS: Cụ thể hóa đường lối Đại hội XII của Đảng, Hội nghị Trung ương 7 khóa XII (tháng 5-2018) đã thảo luận và ban hành Nghị quyết 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. 

Nghị quyết 26 được xây dựng trên quan điểm đổi mới, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đổi mới kinh tế đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị và mọi quá trình đổi mới đều hướng vào mục tiêu vì con người. Trong đó, xác định yếu tố cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là trung tâm, có vai trò quan trọng nhất, quyết định thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng của Đảng. 

Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết 26 nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc...”.

Vì sao việc quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược được xem là sống còn hiện nay đối với công tác xây dựng Đảng? Và cán bộ cấp chiến lược cần phải có những năng lực, phẩm chất như thế nào?

“Then chốt của then chốt”

Nói về tầm quan trọng của công tác cán bộ, tại hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2017 và triển khai nhiệm nhiệm vụ năm 2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn chỉ rõ: Xây dựng Đảng rốt cuộc là xây dựng “tổ chức” và xây dựng “con người”, bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, đường lối chính trị trong mỗi giai đoạn cách mạng. Sau khi có đường lối đúng thì cán bộ đóng vai trò quyết định việc tổ chức thực hiện đường lối. Nhưng mặt khác, nhiều khi cán bộ quyết định cả việc định ra đường lối; cán bộ nào thì đường lối ấy. Nếu xen vào đây lợi ích nhóm hay cá nhân thì sẽ chệch hướng. Chúng ta càng ngày càng thấm thía “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”… “Nếu “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt” thì công việc của Ban Tổ chức các cấp về công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”.

“Nếu “chốt” mà rắn chắc, cứng cáp thì công việc trôi chảy, suôn sẻ. Còn nếu chẳng may cái “chốt” này mà mọt hoặc trục trặc thì không biết tình hình sẽ thế nào…” - Tổng Bí thư nhận định.

Thực tế đã chứng minh trong mọi nhiệm kỳ, cũng như trong suốt quá trình cách mạng, phát triển của đất nước, công tác xây dựng Đảng, xây đội ngũ cán bộ luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Cách đây hơn 20 năm (tháng 6-1997), Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” được ban hành. Đây là sự thể chế hóa đường lối cán bộ của Đảng nhằm tạo ra bước chuyển biến căn bản và toàn diện của đội ngũ cán bộ. 20 năm qua, chiến lược cán bộ đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, tạo khung thể chế cho sự định hình và phát triển đội ngũ cán bộ của thời kỳ phát triển mới của đất nước.

PGS-TS Nguyễn Viết Thông, Tổng Thư ký Hội đồng lý luận Trung ương, cho biết, trong gần 20 năm qua, Đảng có tới 142 văn bản và 5 nghị quyết về công tác cán bộ nhưng thực tế tình hình chưa được như mong muốn, công tác cán bộ còn hạn chế, bất cập. Do đó, Hội nghị Trung ương 7 phải ra một nghị quyết riêng về công tác cán bộ, tập trung vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

“Cán bộ cấp chiến lược phải có năng lực tổ chức thực tiễn “nói và làm”, nhạy cảm về chính trị, không chỉ có nói hay mà phải hành động bằng việc làm cụ thể mới có thể hiện thực hóa hiệu quả được các chủ trương, chính sách đường lối của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống, nếu không chỉ là lý thuyết suông...”, GS-TS Nguyễn Trọng Phúc nói.

Đây là những người giữ chức từ thứ trưởng và tương đương trở lên (khoảng 600 cán bộ cấp chiến lược) với các mục tiêu và 8 nhóm nhiệm vụ giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn. Nghị quyết 26 ra đời để công tác cán bộ đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ, yêu cầu của cách mạng thời kỳ đổi mới, nhất là cách mạng công nghiệp 4.0, hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, đòi hỏi công tác cán bộ cũng phải đổi mới, theo kịp nhu cầu phát triển của đất nước. Hơn nữa, thời gian tới là thời điểm chuyển giao thế hệ; từ thế hệ cán bộ được sinh ra và trưởng thành trong chiến tranh, được đào tạo ở trong nước và một số nước xã hội chủ nghĩa chuyển sang thế hệ được sinh ra, trưởng thành trong hòa bình, được đào tạo ở nhiều nước với chế độ chính trị xã hội khác nhau.

“Nếu không tính đến yếu tố này, không làm công tác cán bộ tốt, thì có thể dẫn tới tình trạng “hụt hẫng” và nguy cơ thế hệ sau phủ nhận công lao cha ông, thế hệ trước...” - PGS-TS Nguyễn Việt Thông cảnh báo.

Phải vì dân, vì nước

Là người đứng đầu cơ quan cao nhất về tham mưu, cũng như thực thi công tác cán bộ của Đảng, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, khẳng định, việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới, thông qua thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân... là vấn đề mang tính nguyên lý của Đảng. Trước hết, phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN; phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; đối phó với những thách thức từ mặt trái của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và tác động của biến đổi khí hậu, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nền kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh...

“Lợi ích của nhân dân là căn cứ xuất phát cho sáng tạo, đổi mới của cán bộ; phong trào cách mạng là môi trường cho cán bộ rèn luyện, phấn đấu, đồng thời là nơi kiểm nghiệm, tôn vinh những cán bộ đem lại lợi ích cho nhân dân, được nhân dân ghi nhận, là nơi sàng lọc những cán bộ yếu kém, thoái hóa, biến chất, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Mỗi thời kỳ lịch sử, ứng với nhiệm vụ cách mạng cụ thể, phải có đội ngũ cán bộ tương ứng” - đồng chí Phạm Minh Chính nhấn mạnh.

Trong khi đó, dưới góc độ một nhà lý luận, nghiên cứu lâu năm về lịch sử Đảng, GS-TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, cho rằng, cán bộ cấp chiến lược là những người ở tầm vĩ mô, giữ những vị trí chủ chốt trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, địa phương và các bộ ngành nên có thể quyết định tới các quyết sách của Đảng, Nhà nước. Do vậy việc xây dựng được đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ vững mạnh, có uy tín và trí tuệ thì chúng ta sẽ không sợ những nguy cơ sai lầm về đường lối, hay sự suy thoái trong đội ngũ, qua đó vững vàng đưa đất nước phát triển.

GS-TS Nguyễn Trọng Phúc nhấn mạnh tới các yêu cầu của việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Trong đó yêu cầu đầu tiên là phải có đạo đức trong sáng, không bị sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham ô, tham nhũng, hay lợi ích nhóm, cũng như không có biểu hiện của cơ hội, tham vọng quyền lực. Tiếp đó, người cán bộ cấp chiến lược phải có trí tuệ cao, nhất là trong bối cảnh đất nước đang hội nhập và thế giới công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ. Thời Lênin cũng đã từng đề cập tới vai trò quan trọng của trí thức và trí tuệ đối với người cán bộ: “Những người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tổng số tri thức mà nhân loại đã tạo ra...”. Sinh thời Bác Hồ cũng từng căn dặn cán bộ, Đảng viên là phải phấn đấu không ngừng học tập để trở thành những người thông thái.

Hơn nữa, yêu cầu hết sức quan trọng đối với cán bộ cấp chiến lược là phải có uy tín chính trị trong Đảng, trong hệ thống chính trị, cũng như với nhân dân. Nếu không có uy tín chính trị, sẽ khó có thể nhận được sự tín nhiệm ủng hộ của nhân dân và Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên để có được uy tín chính trị, người cán bộ cấp chiến lược phải có sự rèn luyện và trải nghiệm qua thực tiễn cách mạng, phải sống gần gũi với nhân dân và biết lo cho dân, cho nước.

Đổi mới công tác cán bộ và cơ chế kiểm soát quyền lực - Bài 2: Chống tham nhũng trong công tác cán bộ

Thực tế những năm vừa qua cho thấy, trong công tác cán bộ vẫn còn tình trạng bổ nhiệm đúng quy trình nhưng người được bổ nhiệm không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. Vẫn có cán bộ năng lực hạn chế, vi phạm kỷ luật, không gương mẫu, để xảy ra mất đoàn kết hoặc không đủ thời gian công tác vẫn được bố trí vào chức vụ cao hơn. 

Việc bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân cán bộ lãnh đạo vẫn xảy ra ở một số nơi, thậm chí xuất hiện khái niệm bổ nhiệm “thần tốc”, bổ nhiệm “nhanh”. Công tác tuyển dụng cán bộ chất lượng chưa cao, thậm chí một số nơi còn để xảy ra sai phạm, tiêu cực. Những vấn đề nhức nhối đó đã gây bức xúc, bất bình trong dư luận xã hội.

Nhiều tiêu cực, bất cập và yếu kém

Nếu như vụ việc của Trịnh Xuân Thanh là một trong những “điển hình” về tiêu cực, sai phạm trong công tác cán bộ cấp cao thì gần đây những lùm xùm, tai tiếng về công tác cán bộ cũng xảy ra tại nhiều địa phương. Thanh Hóa là tỉnh có đội ngũ cán bộ đông và những năm gần đây, địa phương này đang tập trung xây dựng bộ máy cán bộ tinh gọn, vững mạnh nhưng thực tế tại Thanh Hóa đã xảy ra không ít những sai phạm liên quan tới công tác cán bộ.

Sau vụ quan lộ thần tốc của “hot girl” Quỳnh Anh khiến một phó chủ tịch tỉnh và một giám đốc sở mất chức, thì gần đây nhiều cán bộ cấp trưởng, phó phòng thuộc các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hóa, tài nguyên môi trường, nông nghiệp... cũng đã bị xử lý kỷ luật, hủy bỏ quyết định tiếp nhận, điều động, bổ nhiệm vì không đúng quy định. Không chỉ Thanh Hóa, một loạt địa phương khác như: Đà Nẵng, Quảng Nam, Yên Bái, Bình Định, Trà Vinh,… đều có những vụ việc sai phạm liên quan đến công tác cán bộ, bị xử lý thời gian qua.

Theo đánh giá của Ban Tổ chức Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong công tác cán bộ những năm qua không chỉ có những sai phạm, tiêu cực mà đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay còn trong tình trạng đông nhưng không mạnh. Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương cho biết, nếu năm 1997, cả nước có hơn 1,35 triệu cán bộ, công chức, viên chức thì năm 2017, số cán bộ, công chức, viên chức đã tăng gấp đôi, với hơn 2,72 triệu người. Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Trong số cán bộ diện Trung ương quản lý ở các ban, bộ, ngành từ 56 tuổi trở lên còn cao, chiếm tới 56,86%. Cơ cấu lĩnh vực, ngành nghề chưa thật hợp lý, như trong đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có tới 60,49% được đào tạo về kinh tế và luật, trong khi chỉ có 16,56% có trình độ về khoa học - công nghệ và hợp tác quốc tế, 8,36% về xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Đội ngũ cán bộ cấp tướng trong lực lượng vũ trang tăng nhanh trong những năm qua. Số lượng sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang tháng 5-1975 có 92 người (quân đội có 90 người, công an có 2 người); tháng 6-1997 có 298 người (284 quân đội, 14 công an); đến giữa năm 2018 có 627 người (380 quân đội; 247 công an). Riêng số lượng tướng công an trong 20 năm qua tăng hơn 17 lần.

Một tình trạng đáng báo động khác là chất lượng đội ngũ cán bộ không đồng đều, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ còn xảy ra ở nhiều nơi. Không ít cán bộ, kể cả cán bộ cấp chiến lược chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Trình độ tư duy và khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế của một bộ phận cán bộ còn chậm; năng lực tham mưu và tổ chức thực hiện còn hạn chế. Không ít cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, chưa gương mẫu, ngại việc khó, thích nhận việc dễ, có nhiều lợi ích. Nghiêm trọng hơn, một bộ phận không nhỏ cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thậm chí vi phạm pháp luật, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chỉ trong 10 năm gần đây, đã phát hiện hơn 7.000 vụ vi phạm, trong đó có 280 vụ phải xử lý hình sự, hơn 1.700 cán bộ, đảng viên phải xử lý kỷ luật Đảng và 181 người phải xử lý bằng pháp luật trong các tập đoàn, tổng công ty.

Nhìn một cách tổng thể, tổ chức bộ máy cán bộ của hệ thống chính trị nước ta hiện còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lặp giữa các bộ, ngành. Đặc biệt, công tác cán bộ còn nhiều khe hở, lỗ hổng, tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém; chưa có cơ chế để kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền một cách hiệu quả…

“Tại sao có hiện tượng đề bạt, cất nhắc nhiều người nhà, người thân quen mặc dù không đủ tiêu chuẩn? Vì sao cứ nói bổ nhiệm đúng quy trình nhưng kết quả thực tế bố trí cán bộ lại là sai?... Vậy vai trò, trách nhiệm và sự đóng góp của ngành tổ chức xây dựng Đảng trong việc này thế nào?” - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nêu vấn đề. Cũng theo Tổng Bí thư, chúng ta phải có dũng khí, dám thẳng thắn bảo vệ cái đúng, kiên quyết can ngăn những việc làm không đúng, chống cho được tệ bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ và cũng không để bị lợi ích nào cám dỗ, không để bị chi phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen không trong sáng. Phải kiên quyết chống tham nhũng trong công tác cán bộ!

Cần phải “bịt các lỗ hổng”

Nhìn nhận về những bất cập, tồn tại trong công tác cán bộ thời gian qua, Tổng Kiểm toàn Nhà nước Hồ Đức Phớc thẳng thắn cho rằng, vấn đề chạy chức, chạy quyền, suy cho cùng, chính là tham nhũng. Vì vậy, cần phải làm cho kẻ tham nhũng không dám tham nhũng. Trong đó ưu tiên “bịt kín các lỗ hổng” hiện có; hoàn thiện các thể chế một cách hợp lý; quan tâm chế độ đãi ngộ đúng mức; giảm biên chế; nâng cao lương cho cán bộ, viên chức… Đặc biệt, phải lựa chọn chính xác người đứng đầu; tăng cường tính gương mẫu, đi đầu của đảng viên và trách nhiệm người đứng đầu. Cùng với đó minh bạch các cơ chế kiểm tra, giám sát, quy trình…

Theo Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang Bùi Văn Hải, những vấn đề liên quan đến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chạy chức chạy quyền có nhiều nguyên nhân. Có lúc, chúng ta theo đuổi quan điểm đổi mới, cho rằng thế mới là sáng tạo, là tư duy đột phá dẫn đến nhiều cái vượt ra khỏi khuôn khổ, quy định pháp luật, vượt ra khỏi cách chúng ta chỉ đạo dẫn đến nhiều việc trượt đi một thời gian dài. “Khi đó, ta lại xử lý lỏng lẻo, không nghiêm, dung túng, tha thứ nên dẫn đến tật xấu tác động đến cả cán bộ, công chức, thậm chí cả những công chức bên dưới” - đồng chí Bùi Văn Hải nhấn mạnh. Cũng theo đồng chí Bùi Văn Hải, để xử lý tình trạng “tham nhũng trong công tác cán bộ” cần phải thực hiện mạnh hơn, quyết liệt hơn chế độ kiểm tra, thanh tra, giám sát nhất là với các địa phương.

Trong khi đó, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh Lê Đình Sơn khẳng định, muốn Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo đất nước thực hiện thành công các nghị quyết và nhân dân thực sự tin tưởng, thì phải dứt khoát thanh lọc đội ngũ cán bộ thoái hóa, biến chất. Trong thoái hóa, biến chất thì có nhiều lĩnh vực, nhưng lĩnh vực tổ chức xây dựng Đảng rất quan trọng. Bởi khi bộ máy chọn người sai, thì sẽ để lại hậu quả khôn lường. Điều này, chúng ta đã có những bài học thực tế thời gian qua. Đề cập đến công tác “kiểm soát quyền lực và phòng, chống chạy chức, chạy quyền trong công tác tổ chức cán bộ”, đồng chí Lê Đình Sơn nhấn mạnh, cùng với việc hoàn thiện thể chế, cần ưu tiên thực hiện giải pháp 4 không: “không muốn, không dám, không thể và không cần”. Qua đó, làm sao để mỗi cán bộ không thể lợi dụng được và không dám vi phạm kỷ cương, kỷ luật.

Cũng theo đồng chí Lê Đình Sơn, khi người đứng đầu không dân chủ, có chủ nghĩa cá nhân, muốn bổ nhiệm con cháu nhà mình thì bằng cách này, cách khác sẽ tìm cách vận dụng, thậm chí là tìm cách “xi nhan” cho nhau. Vì vậy, khi thực hiện quy trình bỏ phiếu, kết quả 100% nhưng thực chất là không phải vậy. Hệ quả là quy trình thì đúng, nhưng sản phẩm không đúng. “Vì vậy, chúng ta cần phải xây dựng cơ chế quản lý quyền lực. Muốn làm được điều này cần nhận diện cho rõ là xảy ra chạy quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ ở cấp nào, ở đâu; đâu là điểm yếu, lỗ hổng trong thời gian qua. Trong nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân sâu xa là một bộ phận cán bộ của chúng ta đã suy thoái, trong đó có cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ...” - đồng chí Lê Đình Sơn nhận định.

Đổi mới công tác cán bộ và cơ chế kiểm soát quyền lực - Bài 3: Kiểm soát quyền lực là yêu cầu bức thiết



Qua 30 năm đổi mới, 20 năm thực hiện chiến lược cán bộ, nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ đã đạt được nhiều thành tựu nhưng còn không ít hạn chế, tồn tại, nhất là tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, thao túng trong công tác cán bộ; sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc tham nhũng, tiêu cực....

Nhận thức về những vấn đề trên, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nhấn mạnh “Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện”. Và mới đây,  Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) đề ra nhiệm vụ “kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền”…

Không ai được đứng ngoài pháp luật, đứng trên Đảng

Trên thực tế, việc giám sát quyền lực ở Việt Nam là vấn đề khá mới vì từ năm 2013, Hiến pháp mới bổ sung thêm nội dung kiểm soát quyền lực. Trong các văn kiện Đảng trước đây cũng không nói một cách cụ thể vấn đề kiểm soát quyền lực.

Theo PGS-TS Nguyễn Viết Thông, Tổng Thư ký Hội đồng lý luận Trung ương, do đây là vấn đề mới nên trong nghị quyết mới đây của Đảng mới nói tới việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là từ trước tới nay, chúng ta không làm, hay không kiểm soát quyền lực của cán bộ lãnh đạo; bởi cũng đã có những quy định về trách nhiệm, nhiệm vụ quyền hạn của cán bộ lãnh đạo, cũng như Điều lệ Đảng.

Tuy nhiên, các quy định đó chưa thực sự rõ ràng, cụ thể. Bởi kể từ khi Đảng ra đời, cũng như sau khi giành được chính quyền từ năm 1945 tới nay, chúng ta vẫn chưa có được một quy định về chức năng nhiệm vụ của từng cấp ủy. Do đó, dẫn tới tình trạng lấn sân, bao biện và làm thay.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần chỉ rõ: “Phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ; quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn; ngăn ngừa tận gốc những sai phạm, khuyết điểm một cách căn cơ, bài bản bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”.

“Có những bí thư tỉnh ủy làm cả những công việc thuộc ủy ban, chính quyền; ký cả những dự án đầu tư, như thế là không rõ, lẫn lộn về chức năng nhiệm vụ của bản thân. Có những người vi phạm khuyết điểm là do cố ý, nhưng cũng có những người vi phạm là do không hiểu rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của bản thân. Trong nhiều vụ xử lý kỷ luật cán bộ vừa qua có những sai phạm là do ký những văn bản không thuộc thẩm quyền...”, PGS-TS Nguyễn Viết Thông nêu rõ.

Vì thế, trong việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp ủy, từng cá nhân trong cấp ủy, cũng như từng vị trí lãnh đạo trong Đảng. Cùng với đó, phải công khai các quy định, quy chế về kiểm soát quyền lực để mọi cá nhân cán bộ lãnh đạo, đảng viên biết mà thực hiện. Đồng thời, phải trao quyền nhiều hơn nữa cho ủy ban kiểm tra các cấp để giám sát kiểm tra, cũng như phải dựa vào sự giám sát của quần chúng nhân dân, đảng viên. Cùng với đó, khi phát hiện vi phạm dù ở cấp nào, vị trí nào cũng phải xử lý thật nghiêm minh.

“Mọi quyền lực đều phải giám sát, không ai được đứng ngoài pháp luật, đứng trên Đảng được. Cán bộ quyền lực càng cao khi đã bị lạm dụng, tha hóa quyền lực thì tác hại vô cùng khủng khiếp. Thực tế bây giờ không chỉ có lạm dụng quyền lực mà còn lạm dụng, tham nhũng chính sách, gây ra những tác hại, hậu quả rất lớn…”, PGS-TS Nguyễn Viết Thông nhận định và cho rằng, khi quy chế kiểm soát quyền lực được xây dựng xong thì phải do Ban Chấp hành Trung ương ban hành mới có giá trị, ảnh hưởng và tác động lớn trong Đảng và toàn xã hội. Khi ban hành rồi phải tính đến việc triển khai thực hiện như thế nào, quy chế giám sát và xử lý ra sao nếu vi phạm? Bởi thực tế cho thấy, Đại hội Đảng XII quy định về 19 điều đảng viên không được làm, đã được đưa vào Điều lệ Đảng, Cương lĩnh Đại hội, nhưng vẫn có đảng viên, lãnh đạo cấp trên vi phạm là do lãnh đạo chỉ đạo chưa nghiêm túc.

Khó thì hãy dựa vào dân

Theo đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, qua công tác giám sát, kiểm tra, nhiều vụ việc liên quan đến sai phạm trong công tác cán bộ cho thấy, một số cán bộ sử dụng quyền lực chưa đúng quy định; có những người được giao quyền lực đã lạm quyền, lộng quyền mà pháp luật chưa có cơ chế kiểm soát.

“Sử dụng không đúng quyền lực, thẩm quyền, lợi dụng quyền lực dẫn đến chạy chức, chạy quyền. Do đó, phải xây dựng cơ chế để kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền” - đồng chí Phạm Minh Chính nhấn mạnh.

Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang tiến hành lấy ý kiến các cấp để hoàn thiện dự thảo quy định kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ, gồm 4 chương, 16 điều. Trong đó có quy định 8 cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, nhận diện 19 hành vi chạy chức chạy quyền (5 hành vi của người chạy và 14 hành vi của người được chạy, cả hành vi của tập thể và cá nhân). Dự thảo còn quy định 6 cách thức phát hiện hành vi chạy chức chạy quyền; quy định về việc kiểm tra, kết luận, xử lý hành vi chạy chức, chạy quyền…

Phải khẳng định rằng, việc đánh giá đúng, chính xác thực trạng kiểm soát quyền lực, thực trạng chạy chức chạy quyền, chống chạy chức chạy quyền, chỉ ra những ưu, khuyết điểm, hạn chế, nguyên nhân; đề xuất nhiệm vụ, giải pháp hiệu quả, thiết thực, cụ thể để tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ bằng việc ban hành quy định về nội dung này có ý nghĩa quan trọng và là nhiệm vụ hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay. Khi quy chế được ban hành, điều cốt tử là thực thi một cách triệt để, công khai, minh bạch. Trong đó, yếu tố rất quan trọng là người đứng đầu phải thực hiện dân chủ. Cần phải gắn quy chế với việc thực hiện thật tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và XII, đồng thời nghiêm túc học tập, làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một người cán bộ, khi đã suy thoái đạo đức, không tôn trọng danh dự bản thân, thì hành động xấu, sai phạm rất dễ xảy ra. Quyền lực là của nhân dân, mà tổ chức Đảng và Nhà nước giao cho họ. Nhưng khi có quyền thì họ lại tha hóa quyền lực vì mục đích cá nhân. Đó chính là mặt trái của công tác cán bộ mà chúng ta cần phải giám sát, xử lý nghiêm khi sai phạm. 

GS-TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, việc kiểm soát quyền lực là một vấn đề bức thiết khi chúng ta đang trao cho những người cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành và địa phương những chức vụ quyền hạn, trách nhiệm và tài sản rất lớn nên đòi hỏi phải có cơ chế để kiểm soát, ngăn ngừa các biểu hiện về lạm quyền, lộng quyền dẫn tới những tiêu cực như: tham nhũng, vun vén cá nhân và lợi ích nhóm. Hơn nữa, không chỉ cần có cơ chế kiểm soát mà còn cần phải có cả tổ chức để kiểm soát quyền lực, cũng như quy trình để đánh giá, kiểm soát từng chức vụ, từng cán bộ có chức, có quyền thì mới phòng ngừa được các biểu hiện tiêu cực.

GS-TS Nguyễn Trọng Phúc cũng nhấn mạnh, phải làm tốt hơn việc kiểm soát quyền lực ở bộ máy quản lý và cơ sở kinh tế của Nhà nước. Cán bộ có chức có quyền mà không trong sạch, móc ngoặc với nhau để hình thành nhóm lợi ích gây thiệt hại rất lớn cho đất nước. Những sai phạm về kinh tế tại: PVN, Vinashin, Vinalines... là ví dụ điển hình, gây thất thoát, lãng phí tài sản ghê gớm.

“Để kiểm soát được quyền lực đối với cán bộ lãnh đạo thuộc cấp nào quản lý thì cấp đó phải nắm chắc về người cán bộ đó, mạnh yếu ra sao, làm việc như thế nào, mọi biến động của người cán bộ đó như thế nào cũng phải biết rõ. Việc kiểm soát quyền lực của cán bộ lãnh đạo cần phải dựa vào dân vì nếu không có nhân dân thì không thể kiểm soát được. Người dân chính là “tai mắt” của Đảng, Nhà nước khi luôn sẵn sàng phản ánh về những cán bộ nào tốt, cán bộ nào xấu để cấp quản lý biết mà xử lý. Đây cũng chính là quyền dân chủ trực tiếp, quyền làm chủ của nhân dân...”, GS-TS Nguyễn Trọng Phúc khẳng định.

Đổi mới công tác cán bộ và cơ chế kiểm soát quyền lực - Bài 4: Phát huy dân chủ cơ sở, dựa vào dân, lắng nghe dân


Đề cập đến việc đổi mới công tác cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược theo tinh thần Nghị quyết 26 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, đồng chí Phạm Thế Duyệt, nguyên Ủy viên Thường vụ - Thường trực Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng, hơn 2 năm nữa là tới Đại hội Đảng XIII nên ngay từ bây giờ cũng cần phải chuẩn bị đội ngũ kế cận có bản lĩnh chính trị và chuyên môn vững vàng, vì nước, vì dân.

Những cán bộ cấp chiến lược không chỉ phải nêu cao vai trò gương mẫu mà còn phải quán triệt sâu sắc thực hiện quan điểm của Bác Hồ “Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”, trên nêu gương tốt thì dưới cũng noi theo.

Cán bộ chủ chốt mà hỏng thì mất hết lòng tin
 

Đồng chí Phạm Thế Duyệt (ảnh), nguyên Ủy viên Thường vụ - Thường trực Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.



“Tôi chỉ ước rằng mỗi nghị quyết của Đảng ban hành ra thực hiện được khoảng 60%-70% là tốt lắm rồi, chưa nói tới 80%-90%. Và, nghị quyết có làm được hay không, có hiệu quả thiết thực như thế nào thì cứ xuống dưới kiểm tra, nghe dân phản ánh là biết rõ ràng ngay...”


* PHÓNG VIÊN: Tại sao Đảng phải ban hành Nghị quyết 26 về công tác cán bộ ở thời điểm này?

Đồng chí PHẠM THẾ DUYỆT: Đây là yêu cầu đặt ra trong tình hình mới của Đảng và đất nước, cũng như có một thời gian dài việc thực hiện công tác cán bộ có nhiều hạn chế, cách xa so với thực tế. Đối với Nghị quyết 26 vừa qua, tôi thấy có ý nghĩa rất lớn khi công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng đang có nhiều kết quả tốt. Vì thế cần phải nâng tầm cao hơn nữa của công tác này nhằm đáp ứng tình hình mới của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chứ không dừng lại. Hơn nữa, trong tình mới có thể thấy mối quan hệ của các cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược rộng hơn trước nhiều. Từ những vấn đề trong nước, ngoài nước, đến hội nhập quốc tế, cho tới việc nhiều cán bộ được đào tạo cũng khác so với lớp cán bộ được học tập, rèn luyện, trưởng thành trong kháng chiến, lao động sản xuất và đào tạo ở một số nước xã hội chủ nghĩa. Bây giờ nhiều cán bộ lãnh đạo được học tập ở các nước phát triển như Anh, Mỹ... nên họ có kiến thức rất sâu rộng, chuyên môn tốt hơn, nhưng bảo họ có hiểu biết, thấm nhuần ý thức giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng tiền phong thì không dễ. Vì thế, cần phải ban hành Nghị quyết 26 để những ai tới đây được đề bạt vị trí lãnh đạo phải thấy rõ trách nhiệm của bản thân trong việc gìn giữ vai trò của Đảng tiền phong.

* Việc Nghị quyết 26 khẳng định tập trung vào đội ngũ chiến lược có ý nghĩa gì?

- Việc tập trung vào đội ngũ chiến lược rất phù hợp với quan điểm của Bác: “Trên trước dưới sau”, “Đảng viên đi trước làng nước theo sau”. Nếu chỉ có cấp trên kêu gọi hành động chống tiêu cực, tham nhũng mà các ủy viên trung ương, cấp ủy các cấp không bày tỏ ý kiến, hành động mạnh mẽ thì khó có hiệu quả và không thể có chuyển biến tích cực được. Do đó, Trung ương nhấn mạnh tới việc xây dựng đội ngũ cấp chiến lược, cũng như đề cao vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo cấp cao, nhất là trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế. Nếu “nhà bị dột”, nhưng dột phía dưới, có hư hỏng chỗ nào cũng dễ sửa chữa; chứ nếu “dột từ nóc”, hỏng từ trên, thì rất khó sửa chữa. Nói như vậy để thấy rằng, cán bộ chủ chốt mà hỏng, thì mất hết lòng tin của nhân dân. Nếu ở dưới, đảng viên hỏng, chỉ mất lòng tin với một số bộ phận dân cư, lĩnh vực. Nhưng với các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị chưa cần hỏng, mới chỉ “bị nghi ngờ” thôi cũng đã đủ phức tạp, mất hết uy tín với nhân dân. Vì thế, đòi hỏi những cán bộ chiến lược, cán bộ cấp cao phải nhận thức sâu sắc đường lối, nghị quyết của Đảng, đồng thời phải hành động gương mẫu, trong sáng trước Đảng và trước dân.

* Thời gian qua, nhiều cán bộ cấp cao, thậm chí cả ủy viên Bộ Chính trị bị xử lý kỷ luật. Đồng chí nhìn nhận việc này như thế nào?

- Chúng ta hiện đang thực hiện tốt và có kết quả trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh với tiêu cực, tham nhũng lãng phí nhưng cũng chưa thực sự yên tâm. Bởi lẽ thực tế cho thấy, tại nhiều đại hội đảng bộ ở địa phương, của các ngành, các cấp một số nhiệm kỳ qua, có ai nói tới cán bộ hư hỏng đâu? Cũng không thấy ai chỉ ra đảng viên nào, cán bộ nào ở trong cấp ủy, trong trung ương tham nhũng, tiêu cực? Trong khi qua nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực bị phát hiện và xử lý vừa qua có tới 2/3 những người vi phạm bị xử lý là cán bộ đảng viên giữ những vị trí cao trong Đảng, trong chính quyền, bộ, ngành cơ quan nhà nước. Những cán bộ vi phạm bị xử lý vừa qua, họ ở vị trí nào, dù là lãnh đạo chính quyền địa phương hay các bộ ngành thì cũng do Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định cả. Vì thế, việc lựa chọn được những cán bộ ở vị trí chiến lược, cấp cao là đòi hỏi, yêu cầu rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Đó phải là những cán bộ trong sạch, “há miệng mà không mắc quai” mới được người dân tin tưởng.

Để làm được việc này phải thực sự quán triệt sâu sắc tư tưởng của Bác về người cán bộ “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”, đừng để cán bộ ba hoa, hình thức, đánh bóng bản thân. Chúng ta đều biết, những cán bộ cấp cao trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ là người quyết định các vấn đề quan trọng của Đảng và đất nước; nếu những người đó không gương mẫu, hành động quyết liệt theo nghị quyết đại hội đề ra thì làm sao mang lại sự chuyển biến hiệu quả toàn bộ. 

Ủng hộ, tin tưởng, nhưng chưa thực sự yên tâm

* Đồng chí nghĩ sao khi Nghị quyết 26 đề cập tới vấn đề kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ?

- Việc Nghị quyết 26 đề cập kiểm soát quyền lực để nhấn mạnh thêm, chứ thực tế, Đảng ta cũng đã có các quy định về kiểm tra, kiểm soát đảng viên. Tuy nhiên trước đây kiểm tra, kiểm soát phát hiện cán bộ, đảng viên sai phạm “hàng đống, hàng mớ” nhưng không kết luận chỉ rõ để xử lý mà hầu hết là “9 bỏ làm 10”. Như vậy thì làm sao chống tiêu cực, tham nhũng trong Đảng được? Vừa rồi chúng ta xử lý vụ Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh... có thể coi là tiêu biểu của việc chống tiêu cực, tham nhũng trong Đảng; nhưng thử hỏi như vậy đã xong chưa, hết chưa, những người khác đều trong sạch cả không?... Công bằng mà nói, trong toàn Đảng, toàn dân không tin chỉ có chừng đó! Người dân vẫn còn rất băn khoăn và lo lắng về vấn đề này.

Trung ương đề cao vai trò của việc kiểm soát quyền lực là đúng đắn. Nhưng trước hết, Đảng nói và đề ra về kiểm soát quyền lực thì Đảng phải thực hiện nghiêm, nhất là những cán bộ trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư phải là những người gương mẫu đầu tiên. Lãnh đạo gương mẫu, nghiêm minh mới giữ được kỷ cương, phép nước. Quan trọng hơn, để kiểm soát quyền lực, Đảng phải dựa vào dân theo như lời Bác đã từng nói “Dân là gốc”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Cùng với đó, phải có cơ chế để toàn bộ hệ thống chính trị, như: công đoàn, mặt trận, thanh niên, hội khoa học kỹ thuật, hội văn học nghệ thuật… được thẳng thắn, dân chủ bày tỏ ý kiến, thái độ đóng góp cho Đảng trong mọi vấn đề. Bởi thực tế lâu nay, chúng ta vẫn nặng nề vai trò Đảng lãnh đạo nên không ít cá nhân, đảng viên trong công đoàn, mặt trận... có suy nghĩ, ý kiến với Đảng trên tinh thần đóng góp, xây dựng nhưng do nhiều “cơ chế ràng buộc” đã không dám nói ra chính kiến.

* Đồng chí có thể nói rõ hơn vai trò của nhân dân trong việc giám sát quyền lực?

- Trong thực tế hiện nay, nếu không có cơ chế để người dân công khai giám sát một cách dân chủ trong Đảng, thì sẽ có những bộ phận, những người mà không ai dám đụng tới. Điều đó là không công bằng và không thể xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được. Người dân bây giờ đang phấn khởi, tin tưởng những việc mà Đảng đã làm trong thời gian qua về việc xây dựng, chỉnh đốn bộ máy, chống tham nhũng… Tuy nhiên, nói để người dân thực sự yên tâm thì chưa được, nhất là trong thực tế vẫn còn những cán bộ, đảng viên “ham chức, ham quyền”. Đảng cần phải dựa vào dân, lắng nghe dân để thực sự chọn được những người có đức, có tài trong quy hoạch cán bộ các cấp. Việc đó phải làm rất chân thành, thẳng thắn, công khai, minh bạch, mới có hiệu quả và mang lại chuyển biến lớn cho công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.

* Xin cảm ơn đồng chí!


Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất