Ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành phố (BTVTU) trực thuộc Trung ương là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ họp của tỉnh ủy, thành ủy có chức năng lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu tỉnh, thành phố, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy tỉnh, thành phố và của Trung ương; quyết định chủ trương về công tác tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy tỉnh, thành phố; đề xuất, kiến nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy cấp tỉnh, thành phố những vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo của Trung ương và của cấp ủy cấp tỉnh, thành phố đối với địa phương; phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Quyền lực của BTVTU gồm có các nhóm: quyền quyết định, quyền lãnh đạo, chỉ đạo, quyền cho ý kiến, quyền ủy quyền và các quyền lực mềm từ năng lực, phẩm chất, đạo đức, tầm ảnh hưởng, các mối quan hệ của BTVTU.
Cơ chế kiểm soát quyền lực (KSQL) đối với BTVTU là toàn bộ các công cụ, phương thức, quy trình được sử dụng để xem xét, theo dõi, đánh giá hoạt động thực thi quyền lực BTVTU nhằm bảo đảm quyền lực của BTVTU được thực hiện đầy đủ, đúng mục đích, nguyên tắc và quy định.
Nội dung cơ chế KSQL đối với BTVTU là kiểm soát bằng Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Kiểm soát thông qua công tác kiểm tra, giám sát (KT, GS) của Đảng, vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng và phát huy trách nhiệm tự KSQL của BTVTU.
Thực hiện tốt cơ chế KSQL đối với BTVTU là một yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay. Điều này giúp cho các BTVTU, các đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi vi phạm quyền lực, sử dụng quyền lực không đầy đủ, không đúng mục đích; bảo đảm cho quyền lực được thực thi có hiệu quả. Đồng thời là cơ sở quan trọng nhất để các BTVTU nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Những năm qua, nhìn tổng thể, mặc dù đã đạt được những kết quả, có ưu điểm nhất định trong cơ chế KSQL đối với BTVTU bằng Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, tình trạng lạm quyền, lộng quyền, sử dụng quyền lực vì mục đích cá nhân, “lợi ích nhóm” vẫn còn tồn tại. Có hiện tượng lạm quyền trong chỉ đạo công việc, lợi dụng quyền lực cho lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Thiếu dân chủ trong bàn bạc, xây dựng các chủ trương, chính sách của tỉnh, thành phố, chưa minh bạch trong các quyết định, thiếu công khai trong công tác cán bộ. Nói chung, kiểm soát BTVTU trong xây dựng, tổ chức thực hiện các quyết định trên các lĩnh vực công tác vẫn còn nhiều hạn chế. Vẫn còn những BTVTU, một số ủy viên BTVTU vi phạm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng dẫn đến lạm dụng quyền lực được giao, được ủy quyền để mưu lợi cá nhân, “lợi ích nhóm” làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đảng, giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Vẫn có hiện tượng trù dập cá nhân không đồng thuận trong thực thi quyền lực của BTVTU, có nội dung công tác có biểu hiện ảnh hưởng cá nhân chi phối tập thể chưa trong sáng…
Công tác KT, GS vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu theo Chỉ thị số 29-CT/TW của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng”, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) “Về tăng cường công tác KT, GS của Đảng” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số UBKT các cấp vẫn chưa làm tốt chức năng tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công tác KT, GS đối với BTVTU; chưa mạnh dạn đề xuất được với cấp ủy nội dung KT, GS trong những lĩnh vực nổi cộm, bức xúc nhân dân quan tâm. Phương pháp tiến hành công tác KT, GS thiếu chủ động, chưa tích cực tháo gỡ khó khăn để thực hiện nhiệm vụ nên chất lượng các cuộc KT, GS chưa cao. Mặc dù trong thực tế đã có một số BTVTU, ủy viên BTVTU vi phạm Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhưng không phát hiện qua công tác KT, GS của Đảng mà chỉ đến khi có phản ánh của quần chúng nhân dân, của các phương tiện thông tin đại chúng thì mới tiến hành kiểm tra, điều tra, xử lý kỷ luật.
Công tác giám sát và phản biện của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trong thời gian qua đã đạt được những kết quả bước đầu khá tốt. Tuy nhiên, việc triển khai quy chế, quy định ở nhiều tỉnh, thành phố còn lúng túng, quá trình tổ chức thực hiện còn chậm trong lựa chọn đăng ký nội dung giám sát, phản biện đặc biệt là chưa hướng tới các nhóm quyền và thẩm quyền của BTVTU. Do đó, kết quả giám sát, phản biện chưa thực sự phản ánh đúng vai trò tham gia KSQL đối với BTVTU của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội ở một số địa phương chưa thực sự được chú trọng, có lúc, có nơi còn hình thức, hiệu quả chưa cao. Cơ chế cung cấp thông tin hai chiều giữa giám sát, phản biện xã hội và trả lời sau giám sát, phản biện ở nhiều nơi chưa chặt chẽ, việc tổ chức để MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền còn lúng túng. Qua nghiên cứu, khảo sát, một số văn bản của BTVTU đánh giá chưa phát hiện các trường hợp giải trình báo cáo kê khai tài sản của các ủy viên BTVTU không trung thực, đây là ưu điểm, nhưng nhìn ở khía cạnh khác có thể thấy đây chính là hạn chế lớn. Vì chưa phát hiện không có nghĩa là các báo cáo kê khai tài sản là trung thực, không có những nguồn tài sản bất thường mà có thể có những trường hợp bản thân nội bộ BTVTU biết nhưng không đấu tranh, các tỉnh ủy viên biết nhưng không dám phê bình, chất vấn, cán bộ, đảng viên, nhân dân biết nhưng không đủ căn cứ...
Báo cáo kiểm điểm, báo cáo đánh giá chất lượng đảng viên hằng năm của BTVTU, của ủy viên BTVTU cho thấy: Việc thực hiện tự phê bình và phê bình có cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện chưa thường xuyên; công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, quản lý, giáo dục, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên có lúc, có nơi còn hạn chế; một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ chủ chốt, người đứng đầu thiếu gương mẫu, thiếu tu dưỡng, rèn luyện dẫn đến vi phạm.
BTVTU có đồng chí chưa khắc phục được tình trạng quan liêu, ít đi cơ sở trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyên vọng của nhân dân. Trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ còn biểu hiện hành chính hóa, chương trình, kế hoạch được ban hành nhiều, nhưng công tác đôn đốc, nhắc nhở; KT, GS chưa được thực hiện thường xuyên hoặc có KT, GS và chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, nhưng công tác chỉ đạo, khắc phục, sửa chữa khuyết điểm chưa nghiêm nên chưa tạo ra được sự chuyển biến thực sự sau kiểm điểm.
Trong thực hiện quy chế làm việc, BTVTU có lúc chưa phát huy hết tinh thần, trách nhiệm và trí tuệ trong thực hiện nhiệm vụ; kết quả thực hiện hoạt động chất vấn trong Đảng chưa đạt yêu cầu; một số vụ việc nổi cộm chậm được giải quyết hoặc giải quyết chưa triệt để, gây dư luận không tốt trong cán bộ, đảng viên. Một số nội dung trong quy chế làm việc chưa được tuân thủ nghiêm túc. Công tác thông tin, báo cáo của một số cấp ủy viên chưa đạt yêu cầu. Sự phối hợp giữa cấp ủy và chính quyền theo quy chế chưa chặt chẽ. Nhiều vấn đề chưa được BTVTU bàn bạc, thảo luận trước khi chính quyền triển khai.
Những khuyết điểm, hạn chế trên có nguyên nhân do cơ chế KSQL là nội dung mới được Đảng ta đề cập tới trong thời gian gần đây nên chưa có sự phối hợp tốt giữa các chủ thể KSQL cũng như các chủ thể tham gia KT, GS, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay đang diễn ra vô cùng phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có chiều hướng phát triển. Cơ chế giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay chưa phát huy tốt hiệu quả trong cơ chế KSQL đối với BTVTU; năng lực, phẩm chất của một số ủy viên BTVTU còn hạn chế. Các văn bản quy định về cơ chế KSQL đối với BTVTU hiện nay chưa đầy đủ, vừa có sự chồng chéo, vừa có khoảng trống. Vai trò của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền hiện nay chưa được phát huy được hiệu quả. Công tác cán bộ là công tác “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, do đó, phải thực hiện nghiêm túc, hiệu quả quy định về KSQL trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền, tránh tình trạng đúng quy trình nhưng không đúng người, không đúng việc. KT, GS là công tác xuyên suốt trong toàn bộ cơ chế KSQL đối với BTVTU, tuy nhiên hiệu quả công tác KT, GS trong việc thực thi quyền lực đối với BTVTU còn rất hạn chế. Nhìn chung, cần chú ý phải kiểm soát cả việc phòng ngừa, ngăn chặn việc lạm quyền, lộng quyền, thực hiện quyền lực không đầy đủ; phải coi trọng việc tự KSQL của BTVTU; phải gắn KSQL đối với BTVTU với KSQL đối với cấp uỷ tỉnh, thành phố; phải có chế tài xử lý đối với các hành vi lạm quyền, lộng quyền, thực hiện quyền lực không đầy đủ đối với BTVTU.
Để thực hiện tốt cơ chế KSQL đối với BTVTU cần một số giải pháp chủ yếu sau:
1. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của BTVTU theo hướng phân công cụ thể và chịu trách nhiệm rõ ràng đối với các ủy viên BTVTU, nhất là người đứng đầu
Quy chế làm việc của BTVTU là văn bản quan trọng nhằm điều chỉnh toàn bộ hoạt động của BTVTU và các ủy viên BTVTU. Do đó, đầu nhiệm kỳ, tỉnh ủy, thường trực tỉnh ủy cần chú trọng đầu tư thời gian, trí tuệ tập trung thảo luận một cách nghiêm túc, chất lượng để soạn thảo, bổ sung và hoàn thiện quy chế đó một cách rõ ràng, cụ thể. Quy chế phải bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Cần nêu rõ các cơ sở, căn cứ xác định nội dung quy chế, phân biệt cụ thể những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm trong việc tổ chức và thực thi quyền lực của BTVTU, trách nhiệm giải trình của ủy viên BTVTU. Đặc biệt, quy chế cần chỉ rõ những công việc BTVTU phải họp, thảo luận, bàn bạc để quyết định; những công việc theo chức trách, nhiệm vụ mà các ủy viên BTVTU có thể quyết định và chịu trách nhiệm theo từng chức danh.
Quy định rõ trách nhiệm của BTVTU, ủy viên BTVTU đến đâu với những vấn đề trọng tâm, phức tạp trên địa bàn tỉnh. Thực hiện tốt được điều này sẽ hạn chế và loại trừ dần tình trạng dựa vào tập thể của các ủy viên BTVTU, nhất là khi có sai phạm, gây hậu quả xấu thường đổ lỗi cho tập thể, không quy được trách nhiệm cá nhân. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, xác định trách nhiệm, nhất là của người đứng đầu trong công tác xây dựng chính sách, văn bản pháp luật, không để bị chi phối, tác động, hướng lái; không để xảy ra tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, lợi ích cục bộ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong văn bản chính sách, pháp luật.
2. Tiếp tục hoàn thiện quy định cụ thể, chặt chẽ về công tác cán bộ đối với BTVTU
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, trong đó đặt ra nhiệm vụ trọng tâm hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế KSQL, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương, tham nhũng quyền lực mà biểu hiện cụ thể là chạy chức, chạy quyền. Các tỉnh ủy, thành ủy, BTVTU cần thực hiện nghiêm túc Quy định 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019 của Bộ Chính trị về việc KSQL trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Đặc biệt cần quan tâm đến nội dung công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; phát huy dân chủ trong công tác cán bộ; xây dựng cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ; phải thường xuyên báo cáo, giải trình về công tác cán bộ để tỉnh ủy, BTVTU kịp thời nắm thông tin; KT, GS và xử lý trách nhiệm trong công tác cán bộ của BTVTU; xử lý nghiêm các hành vi chạy chức, chạy quyền.
Coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thử thách, luôn luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung theo tinh thần Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
3. Nâng tầm vị thế, trách nhiệm của UBKT các cấp trong việc KT, GS thực thi quyền lực đối với BTVTU
Trong toàn bộ cơ chế KSQL đối với BTVTU hiện nay, UBKT Trung ương, UBKT cấp ủy cấp tỉnh là chủ thể KT, GS nhưng lại có vai trò vô cùng quan trọng vì đây là cơ quan tham mưu, giúp việc chủ đạo cho tỉnh, thành ủy, BTVTU, trong việc KT, GS BTVTU thực hiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của các cấp ủy đảng. Vì vậy, cần nghiên cứu, tổng kết và xây dựng lộ trình để tăng thẩm quyền cho UBKT nói chung và thẩm quyền trong KT, GS BTVTU nói riêng. Mục đích, tôn chỉ của công tác KT, GS là nhằm giữ gìn sự trong sạch, vững mạnh của các tổ chức đảng, đảng viên và góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của toàn Đảng. Nghiên cứu, tham mưu đề xuất quy định về KSQL, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán.
4. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về việc thực hiện tốt cơ chế KSQL đối với BTVTU
Cơ chế KSQL đối với BTVTU có vai trò vô cùng quan trọng để quyền lực của BTVTU được thực hiện đúng, đầy đủ và ngăn chặn nguy cơ lạm quyền, lộng quyền. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm về vai trò, mục đích, ý nghĩa của việc tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế KSQL đối với BTVTU đối với bản thân BTVTU và các chủ thể trong cơ chế kiểm soát này. Cần tập trung thực hiện phổ biến nguy cơ của việc lạm quyền, lộng quyền; đồng thời phổ biến các thể chế KSQL đối với BTVTU để các chủ thể tham gia trong cơ chế KSQL hiểu, biết và vận dụng có hiệu quả; phải tổ chức quán triệt, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các cấp ủy đảng một cách nghiêm túc, hiệu quả.
5. Phát huy vai trò tự KSQL của BTVTU
BTVTU cần xác định đúng vị trí, vai trò của mình, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thật sự thấm nhuần lời dạy của Bác: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[1]. BTVTU phải nhận thức đúng đắn nhân dân là người chủ thực sự của quyền lực, nhân dân là gốc của nước, của chế độ XHCN; phải tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị; nâng cao năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; trung thực, thẳng thắn trong tự phê bình và phê bình, trong kê khai tài sản, thu nhập cá nhân; kịp thời xử lý nghiêm minh những bất đồng phát sinh trong nội bộ BTVTU.
6. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng đối với BTVTU
Phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng về vai trò của mình trong việc tham gia giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, giúp cho Đảng, Nhà nước xây dựng, thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, đáp ứng đúng với nguyện vọng chính đáng của nhân dân, giữ vững định hướng XHCN mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn.
------------
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG Sự thật, H. 2011, tập 15, tr.611-612.
TS. Trần Duy Hưng (Phó Vụ trưởng Vụ Đào tạo, bồi dưỡng) - ThS. Nguyễn Thị Hồng Nhung, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương