Đại tướng Nguyễn Chí Thanh về lãnh đạo tư tưởng trong Quân đội
dự Hội nghị Quân chính toàn quân lần thứ nhất (1960).

Đồng chí Nguyễn Chí Thanh sinh ngày 1-1-1914, tại thôn Niêm Phò, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, mất ngày 6-7-1967sau một cơn đau tim đột ngột. Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí ba lần bị địch bắt giam ở các nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột, từng  lăn lộn khắp các chiến trường và trải qua nhiều cương vị lãnh đạo khác nhau. Từ năm 1938 đến năm 1950, đồng chí lần lượt giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, Bí thư Xứ ủy Trung kỳ, Bí thư phân Khu ủy Bình - Trị - Thiên, Bí thư Liên Khu ủy Liên khu IV. Năm 1950 đồng chí được điều động giữ trọng trách Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Bí thư Tổng Quân ủy. Khi ở cương vị mới, đồng chí đã tập trung tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác tư tưởng trong Quân đội.

Thực tiễn, cho thấy: “Lãnh đạo tư tưởng là trọng tâm của công tác lãnh đạo chính trị, mà lãnh đạo chính trị là một vấn đề căn bản… Cho nên, chúng ta phải đề cao công tác lãnh đạo tư tưởng nhằm đưa trình độ tư tưởng của quân đội ta lên cao…, có như vậy mới mong hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề sắp tới”1. Trước yêu cầu, nhiệm vụ về “Xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại”2, việc đầu tiên Đại tướng quan tâm là xây dựng quân đội về mặt chính trị. “Nếu chúng ta không thấy hết yêu cầu mới của chính trị và tư tưởng thì chúng ta sẽ tự mãn, chủ quan rồi sinh ra lỏng lẻo, có thể làm cho chất lượng cách mạng của quân đội ta giảm sút3. Vì thế, việc xây dựng quân đội về chính trị tư tưởng có ý nghĩa to lớn: “Chúng ta phải ra sức tăng cường và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo công tác chính trị”4.

Để phát huy tốt vai trò công tác tư tưởng, Đại tướng cho rằng trước tiên phải gắn lý luận với thực tiễn,đi từ cụ thể thực tiễn khái quát, đúc kết thành nguyên tắc, lý luận, lời nói phải đi đôi với hành động. Đặc biệt phải luôn khéo léo kết hợp giữa giáo dục tư tưởng chính trị với quân sự tạo nên mối quan hệ chặt chẽ giữa quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, giữa tiền tuyến và hậu phương, giữa con người và vũ khí, giữa lãnh đạo và chỉ huy để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Xây dựng chính trị làm cơ sở nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Với quần chúng và phong trào, Đại tướng là người luôn đi sâu, đi sát bất kỳ ở đâu, làm việc gì, dù ở hậu phương hay nơi tiền tuyến, đồng chí luôn có mặt kịp thời để  lãnh đạo, động viên. Theo Đại tướng, có tiếp xúc với quần chúng mới hiểu được tâm tư, nguyện vọng của họ, giúp cho người cán bộ khi định ra chủ trương, kế hoạch, biện pháp lãnh đạo đạt hiệu quả cao: “Người cán bộ chừng nào càng đi sục sạo đây đó càng nhiều thì càng làm cho quan hệ trên dưới tốt lên, nhất là mạnh dạn đi xuống cơ sở, tuy lúc đầu còn bỡ ngỡ, nhưng về sau con mắt sẽ tinh hơn, tai sẽ thính hơn, tác dụng sẽ nhiều hơn”5. Và, phải biết tìm cái mới trong thực tiễn sinh hoạt, huấn luyện, chiến đấu của bộ đội. Muốn vậy, đối với cán bộ nói chung và nhất là cán bộ chính trị phải là người dám xông vào thực tế, tiếp xúc với quần chúng hàng ngày. Không phải lúc nào quần chúng cũng có thể thổ lộ và không phải với ai họ cũng thổ lộ mà phải là người biết chia sẻ, động viên họ, là chỗ dựa tinh thần cho họ khi gặp khó khăn, khuyến khích họ khi hoàn thành nhiệm vụ thì mọi việc họ sẽ tâm tư, thổ lộ.

Muốn lãnh đạo tư tưởng đạt hiệu quả cao, Đại tướng cho rằng phải có phương pháp, chủ động trong công việc, tác phong phải cụ thể, thiết thực, luôn lấy giáo dục, thuyết phục là chính. Công tác chính trị tư tưởng phải mọi lúc, mọi nơi, gắn chặt với công tác quân sự, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ lợi ích đất nước, dân tộc. Quân sự không thể thiếu trong việc thực hiện mục tiêu chính trị: “Cuộc chiến tranh nào cũng biến động nhưng cuộc chiến tranh của chúng ta biến động càng dữ. Công tác chính trị phải nắm chắc đường lối chiến tranh, đường lối quân sự và thường xuyên bám sát thực tiễn luôn luôn biến động”6.

Lãnh đạo công tác tư tưởng, Đại tướng căn dặn: không nên máy móc chỉ được thế này không được thế kia, mà phải xem xét nhìn nhận một cách toàn diện, bám sát diễn biến tình hình trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể để phân tích, nhận định, đánh giá thì lúc đó công tác tư tưởng mới đạt kết quả. Đồng chí   phê bình và kiên quyết chống tư tưởng gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, thiếu dân chủ, thói tự do tự mãn, bệnh cục bộ, bè phái địa phương chủ nghĩa… Trong buổi nói chuyện với cán bộ Tuyên huấn năm 1951, đồng chí nhấn mạnh: “Trên chiến trường, yếu tố tinh thần là yếu tố quyết định thắng lợi. Tinh thần của quân đội phải được xác định trên cơ sở sự giác ngộ chính trị và tư tưởng cách mạng vững chắc". Đồng chí  nhắc nhở, động viên những cán bộ làm công tác tư tưởng gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của bộ đội..

Theo Đại tướng, công tác chính trị, tư tưởng cần  khắc phục những biểu hiện lệch lạc, tiêu cực, là “nâng cao quyết tâm cách mạng và lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng”, coi đó là “cái gốc” để nâng cao ý chí chiến đấu. Lãnh đạo tư tưởng là một công việc lâu dài,  phức tạp, khó khăn, bởi tư tưởng con người luôn thay đổi, phát triển theo tình hình, hoàn cảnh thực tế. Cho nên lãnh đạo tư tưởng cần phải căn cứ vào sự thay đổi của hoàn cảnh, nhiệm vụ mà kịp thời đề ra nội dung, yêu cầu. Không thể định ra yêu cầu về tư tưởng quá cao, hoặc lại quá thấp so với nhiệm vụ. Để lãnh đạo tốt công tác tư tưởng, trước hết phải nắm vững nguyên tắc, cần phải có tinh thần tích cực và  khôn khéo. Đồng chí cũng phê bình nghiêm khắc bệnh làm công tác tư tưởng kiểu hành chính, mệnh lệnh, cần giải thích, động viên, khích lệ, thuyết phục, định hướng, dẫn dắt. Mục đích Lãnh đạo tư tưởng là làm cho cán bộ, chiến sĩ biết phân biệt đúng, sai, cái tốt và chưa tốt để có tư tưởng đúng, khắc phục sai trái. Để làm được điều đó, trong lãnh đạo tư tưởng phải giải quyết vấn đề tận gốc, phải đi từ giáo dục mục tiêu lý tưởng cách mạng cho quần chúng, chỉ rõ mục đích chiến đấu để làm gì, chiến đấu cho ai, vì sao mà chiến đấu. Đồng thời hết sức phản đối thái độ tiêu cực, ba phải, lừng chừng trong lãnh đạo tư tưởng. Có như vậy, mới nâng cao được trình độ giác ngộ cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ cấp dưới tự giác sửa chữa những sai lầm tận gốc, từ chỗ còn đang do dự đến chỗ dũng cảm hy sinh, quyết tâm tiêu diệt địch, từ chỗ ngại khó khăn gian khổ đến chỗ vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ.

Trong điều kiện hoàn cảnh phức tạp thì tình hình tư tưởng cũng diễn biến phức tạp. Lãnh đạo tư tưởng phải từ phức tạp nhìn thấy trước, bao quát được mọi vấn đề. Ví như trong lúc đang thuận lợi, nhìn thấy khó khăn trở ngại, trong các khuyết điểm tìm cho ra cái ưu điểm, thuận chiều… Bất cứ làm công tác gì cũng phải nhìn thấy rõ hai mặt: thuận lợi và khó khăn để lãnh đạo tư tưởng, giải thích đúng mức thuận lợi để quần chúng phấn khởi, tin tưởng, chỉ ra những khó khăn để động viên họ quyết tâm khắc phục. “Giáo dục chính trị, cải tạo tư tưởng càng nhiều, càng kỹ, càng công phu bao nhiêu thì càng giảm bớt được sai lầm cho cán bộ, bảo toàn được cán bộ và càng tránh được những biện pháp về tổ chức bấy nhiêu. Điều đó đặc biệt có lợi. Phương châm lấy giáo dục làm chính là phương châm rất đúng để giải quyết mâu thuẫn nội bộ quân đội. Đảng ta rất chú trọng giáo dục chính trị, cải tạo tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là cán bộ”.7

Đại tướng luôn căn dặn, trong lãnh đạo tư tưởng phải biết khêu gợi, hướng dẫn, chịu khó, bền bỉ thuyết phục, tránh thái độ hấp tấp vội vàng, nóng nảy, giản đơn hoặc dùng mệnh lệnh, uy quyền để bắt người ta phải theo. Phải thấu hiểu: “Là người lãnh đạo phải đặt mình vào hoàn cảnh và hiểu rõ quần chúng mà dùng lý lẽ thuyết phục cho phù hợp. Đi đôi với việc dùng lý lẽ để thuyết phục là phải lấy thái độ chân thành mà cảm hóa quần chúng. Phân biệt rõ mặt tốt, mặt chưa tốt của từng người, cái gì tốt thì biểu dương, khuyến khích, cái gì chưa tốt thì đấu tranh, phê bình, không nên thấy có việc gì sai trái thì cho người ta là hỏng bét cả, như thế là không đúng”8. Không nên nhận định tư tưởng một cách qua loa mà phải nắm chắc, đi sâu phân tích bản chất của vấn đề, tìm ra được nguyên nhân của những thắc mắc, phải mở rộng dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình. Đại tướng nhắc nhở lãnh đạo, chỉ huy  phê bình việc chứ không  phê bình người, việc làm như vậy là sai, là chưa đúng; phê bình phải từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, kiên quyết đấu tranh để giữ vững cái đúng, tiếp thu cái đúng, phê phán đến nơi đến chốn cái sai để tăng cường đoàn kết nhất trí, nâng cao nhận thức, rèn luyện lập trường, quan điểm tư tưởng cách mạng, chứ đừng lợi dụng nhân cơ hội phê bình việc làm sai  mà trù dập cấp dưới. Ngày 4-4-1952, trong Hội nghị tổng kết chiến dịch giải phóng Hòa Bình, đồng chí đã nhấn mạnh: “Phải lấy tư tưởng làm trọng. Nếu giải quyết được tư tưởng thì giải quyết được tác phong công tác”9.

Trong công tác lãnh đạo chính trị thì lãnh đạo tư tưởng là trọng tâm. Đồng chí nêu  yêu cầu: “Phải kết hợp lãnh đạo tư tưởng với việc lãnh đạo thi hành các chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ. Tư tưởng không đúng dễ hiểu sai chủ trương của Đảng, dẫn đến nhiều lúc không thi hành hoặc thi hành không đúng. Một trong những mục tiêu quan trọng của công tác lãnh đạo tư tưởng là phải làm cho quân đội thấu triệt và thi hành đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ”10. Đại tướng thường qua những câu chuyện có thật khi đi kiểm tra các đơn vị đã trực tiếp chứng kiến để giáo dục cán bộ về tác phong cụ thể, tỉ mỉ, chu đáo trong công tác. Việc đi sâu, đi sát cơ sở đã trở thành phong cách lãnh đạo của Đại tướng. Đồng chí luôn nhắc nhở người chỉ huy cần phải biết lắng nghe ý kiến của cấp dưới làm cho họ không những thấy yêu cầu của họ mà còn thấy được khó khăn chung, khó khăn của lãnh đạo để tìm sự đồng thuận.

Trong công tác, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh luôn lấy việc xây dựng quân đội về chính trị và tư tưởng là mặt quan trọng nhất. Đồng chí nói: Tinh thần chiến đấu của bất cứ một quân đội nào cũng bắt nguồn từ sự giác ngộ chính trị của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội đó. Đồng chí là một người đưa công tác Đảng, công tác chính trị vào trong quân đội, trở thành một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã có những cống hiến to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, của quân đội và nhân dân ta. Đồng chí là một hình ảnh cao đẹp về một con người cộng sản, một vị tướng tài đức, trí dũng song toàn của quân đội ta, một nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phong cách lãnh đạo tư tưởng của Đại tướng luôn là những bài học có tính thời sự cho quân đội ta..

 

Trung tá Chu Văn Lộc
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

 



1. Nguyễn Chí Thanh, Luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H. 1970, tr. 50

2. Nghị quyết quân sự của Đảng 1930- 1960, Nxb QĐND, H. 1959, tr. 163.

3; 4. Nguyễn Chí Thanh, Những bài viết chọn lọc quân sự, Nxb QĐND, H, 1977, tr. 368, 369, 322

5. Nguyễn Chí Thanh, Những bài viết chọn lọc quân sự, Sđd, tr. 536.

6. Nguyễn Chí Thanh, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong Quân đội nhân dân, Nxb QĐND, H. 1997, tr. 49

7. Nguyễn Chí Thanh, Luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, tr. 69, 70.

8. Nguyễn Chí Thanh, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong Quân đội nhân dân, Sđd, tr. 45.

9. Bộ Tổng tham mưu, Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, tập 4, 1963, tr. 223.

10. Nguyễn Chí Thanh, Luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, tr. 30.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất