Kế thừa, phát huy, đổi mới
Kết quả
1. Hoạt động lập pháp tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều tiến bộ cả về số lượng, chất lượng và quy trình, thủ tục; cơ bản đáp ứng được yêu cầu đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Với sự phấn đấu nỗ lực, không ngừng đổi mới, trong 4 năm, Quốc hội đã thông qua được 68  luật, 12 nghị quyết; Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua 13 pháp lệnh và 7 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Các văn bản pháp luật được ban hành bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và điều hành kinh tế- xã hội của đất nước.
Nội dung các đạo luật điều chỉnh bao gồm hầu hết các lĩnh vực, từ quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến các vấn đề về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý nợ công; trưng mua, trưng dụng tài sản; thuế sử dụng đất nông nghiệp, tài nguyên, thu nhập cá nhân... Đồng thời, quan tâm sửa đổi, bổ sung kịp thời một số chế định pháp luật không còn phù hợp thuộc các lĩnh vực: ngân hàng; tín dụng; thuế; đầu tư xây dựng cơ bản; phòng, chống tham nhũng; quốc tịch; giao thông đường bộ; xuất bản; sở hữu trí tuệ,... để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Quy trình lập pháp tiếp tục được đổi mới, cải tiến theo hướng nâng cao chất lượng, tăng tính chủ động, cụ thể trong văn bản pháp luật. Một số khâu trong quy trình lập pháp đã có sự thay đổi, bảo đảm khoa học, dân chủ và chặt chẽ hơn. Việc điều chỉnh thời điểm thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm và linh hoạt giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung khi cần thiết và báo cáo Quốc hội; giao Ủy ban thường vụ Quốc hội chủ trì chỉ đạo việc tiếp thu, chỉnh lý dự án trình Quốc hội thông qua, đã tạo điều kiện có thêm thời gian và chủ động hơn trong chuẩn bị, xây dựng và hoàn thiện văn bản. Việc quy định vấn đề lồng ghép giới trong quy trình lập pháp là một bước tiến bộ, phù hợp với xu hướng của thế giới. Thực tiễn chứng minh những điều chỉnh mới trong nhiệm kỳ này là phù hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật.
Công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh được tiến hành tích cực, có sự phân công rõ ràng cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp. Các cơ quan của Quốc hội đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, các chuyên gia, nhà khoa học, ý kiến của cử tri v.v. Vì vậy, các báo cáo thẩm tra bảo đảm chất lượng, thể hiện rõ chính kiến, có tính phản biện cao, có cơ sở khoa học và thực tiễn hơn. Công tác chỉnh lý, hoàn thiện văn bản trước khi trình Quốc hội thông qua được Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, thận trọng.
Các đoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều hình thức thảo luận, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức hữu quan và cá nhân ở địa phương vào các dự án luật. Các đại biểu Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng văn bản ban hành.
Việc công khai dự thảo văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên các trang thông tin điện tử đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp kịp thời nắm bắt được dự kiến những thay đổi về chính sách, pháp luật để đóng góp ý kiến xây dựng văn bản và chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện sau này.
2. Hoạt động giám sát được tăng cường, có nhiều đổi mới về cách thức tiến hành, nhất là chất vấn và giám sát chuyên đề.
Thông qua giám sát đã kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung, phát huy tính tích cực, giảm thiểu những hệ lụy nẩy sinh từ chính sách; chấn chỉnh kịp thời các sai sót, khuyết điểm, thúc đẩy thực hiện tốt các nhiệm vụ. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt, Quốc hội đã tiến hành giám sát tối cao sáu chuyên đề  và ra nghị quyết nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể mà Chính phủ, các cơ quan liên quan phải tập trung thực hiện, trong đó, có nội dung được giám sát hai lần như đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước ở các bộ, ngành, địa phương.  
Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục được cải tiến mạnh mẽ theo hướng tập trung hơn, thực chất hơn, phản ánh sát thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân, làm rõ thêm tình hình, nguyên nhân, chỉ ra trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nghị quyết của Quốc hội. Cách thức tiến hành chất vấn được cải tiến theo nhóm vấn đề với sự tham gia của Thủ tướng, Phó thủ tướng Chính phủ và nhiều bộ trưởng, trưởng ngành; tăng thời gian đối thoại, tạo không khí cởi mở, thẳng thắn. Sau chất vấn, các cá nhân và cơ quan có liên quan đã nghiêm túc xem xét những vấn đề đại biểu nêu lên, như rà soát quy hoạch, quản lý cấp phép sân gôn; điều hành thu mua xuất khẩu gạo; xây dựng một số công trình thủy điện vừa và nhỏ; quản lý thị trường ngoại hối, thị trường vàng; chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có công...Việc theo dõi thực hiện lời hứa của người trả lời chất vấn được thực hiện thường xuyên hơn. Thực tế cho thấy, hoạt động giám sát chuyên đề và chất vấn thời gian qua đã góp phần tích cực giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra, có tác động thiết thực trong thực tế, thúc đẩy các cơ quan nhà nước khắc phục những thiếu sót, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Những điểm mới là Quốc hội đã ra nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn; xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri. Việc làm này đã tác động tích cực đến tâm tư, tình cảm, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, khuyến khích nhân dân tích cực tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Đồng thời là căn cứ để đại biểu Quốc hội tiếp tục chất vấn, làm rõ trách nhiệm của các bộ trưởng, trưởng ngành, nhất là những vấn đề đã hứa trước Quốc hội và cử tri.
Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội được tiến hành tích cực, chủ động trên các lĩnh vực được phân công phụ trách; có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức giám sát, có sự kết hợp giữa giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên; phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động giám sát chặt chẽ hơn. Chất lượng thẩm tra các báo cáo, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo...ngày càng được nâng cao. Việc tổ chức chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội và tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng, Uỷ ban của Quốc hội là điểm mới trong nhiệm kỳ này, bước đầu đạt được những kết quả nhất định. Các nhận định, đánh giá trong báo cáo giám sát đã phản ánh sát thực và khách quan tình hình thực tiễn, nêu rõ những kết quả đạt được, kịp thời phát hiện những hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách, pháp luật, những yếu kém trong quản lý, điều hành. Các đề xuất, kiến nghị trong báo cáo giám sát cụ thể, có tính khả thi và tạo được sự đồng thuận cao đã có tác dụng tích cực cho các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp cũng như trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách.
Các đoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng trong tiến hành hoạt động giám sát tại địa phương. Qua giám sát, nhiều kiến nghị có chất lượng đã được các bộ, ngành, cơ quan hữu quan ở trung ương và địa phương xem xét giải quyết. Đồng thời, đã phối hợp tốt trong việc giám sát chuyên đề theo chương trình giám sát của Quốc hội, các cơ quan của của Quốc hội. Nhiều đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia hoạt động giám sát, hoạt động tiếp xúc cử tri, qua đó, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của đại biểu nhân dân.
3. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng có chất lượng, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Trong bối cảnh có những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới tác động bất lợi đến phát triển kinh tế - xã hội, Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri; thảo luận, tranh luận thẳng thắn và đề ra những giải pháp phù hợp, góp phần làm chuyển biến tình hình, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước. Các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; về ưu tiên kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu duy trì tăng trưởng hợp lý; về điều chỉnh mục tiêu tổng quát, một số chỉ tiêu chủ yếu (tốc độ tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước…); phát hành trái phiếu Chính phủ để tập trung xây dựng những công trình giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế…phù hợp với tình hình thực tế, đã góp phần cùng Chính phủ, các cấp, các ngành khắc phục khó khăn thách thức, đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Thực tế đã chứng minh, những điều chỉnh đó là cần thiết, đúng đắn và kịp thời, thể hiện bước tiến mới về năng lực lãnh đạo, trình độ dự báo, khả năng phản ứng chính sách và bản lĩnh vững vàng của Đảng và Nhà nước ta.
Các nghị quyết về ngân sách ngày càng được nâng cao về chất lượng, góp phần giữ vững các cân đối vĩ mô, cân đối ngân sách nhà nước một cách tích cực; đẩy mạnh sự phân công, phân cấp, tạo sự chuyển biến quan trọng, chủ động trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Đồng thời, bảo đảm những điều kiện vật chất để xử lý kịp thời các vấn đề cấp bách phát sinh; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nhất là trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước.
Các quyết định về chủ trương đầu tư dự án thủy điện, điện hạt nhân; về rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội; kéo dài nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân; điều chỉnh địa giới hành chính; thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường…; về chưa đầu tư dự án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội - Tp.Hồ Chí Minh; về bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm nhân sự cấp cao của Nhà nước..., đều được Quốc hội xem xét kỹ lưỡng, thận trọng, bảo đảm quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai, gắn với việc thực hiện chức năng giám sát, nhất là quy trình thông qua các vấn đề kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước.
4. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh.
Tăng cường đối ngoại song phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới. Củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ, nghị viện Châu Âu, nghị viện nhiều nước thuộc liên minh Châu Âu, đưa các mối quan hệ này đi vào thực chất, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; khai thông và phát triển quan hệ với nghị viện nhiều nước thuộc khu vực Châu Phi và các nước Trung, Nam Mỹ theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta; quan tâm đẩy mạnh và củng cố quan hệ truyền thống với các nước Trung và Đông Âu, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục tăng cường hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và thế giới như Đại hội đồng Liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn Nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương, Liên minh Nghị viện Thế giới, Liên minh Nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ, Hội nghị đối tác Nghị viện Á-Âu. Tham gia đóng góp tích cực vào các diễn đàn, chủ động đề xuất các sáng kiến, những khuyến nghị nhằm thúc đẩy hợp tác có hiệu quả của các tổ chức này; một số sáng kiến được nghị viện các nước tán thành và đưa vào Nghị quyết của Đại hội đồng. Đặc biệt, việc Quốc hội nước ta đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch và tổ chức thành công Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á lần thứ 31; được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới nhiệm kỳ 2010-2011; đảm nhận cương vị Chủ tịch Nhóm ASEAN+3 đã đánh dấu sự trưởng thành mạnh mẽ của ngoại giao nghị viện Việt Nam, góp phần thiết thực vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực của nước ta.
Thông qua con đường ngoại giao nghị viện, các đoàn của Quốc hội Việt Nam đã trực tiếp tham gia đối thoại nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, những xung đột về quan hệ thương mại và đã thu được những kết quả tích cực. Công tác tuyên truyền đối ngoại được đẩy mạnh, góp phần vào việc thông tin, quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế; phát triển các quan hệ kinh tế và nâng cao vai trò, vị thế của nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng trên trường quốc tế.

Kinh nghiệm
1. Nhìn một cách tổng thể, có thể khẳng định, kết quả nổi bật trong nhiệm kỳ khóa XII là Quốc hội đã hoạt động ngày càng dân chủ, thiết thực và hiệu quả, có nhiều đổi mới cả trong tư duy và thực tiễn hành động.
Công tác xây dựng pháp luật tiếp tục được đổi mới về quy trình, bảo đảm tăng cả về số lượng và chất lượng, góp phần thể chế hóa kịp thời, đúng đắn đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước. Công tác giám sát được tăng cường với sự kết hợp của nhiều phương thức tổng hợp, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan của Quốc hội. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, thảo luận, ra nghị quyết và giám sát thực hiện nghị quyết đã được thông qua. Việc Quốc hội khoá XII giám sát giải quyết các kiến nghị của cử tri là một điểm mới, mang lại hiệu quả thiết thực. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, đặc biệt là về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và công trình dự án quốc gia ngày càng có chất lượng hơn, bám sát và đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn. Hoạt động đối ngoại đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng nâng cao vị thế của đất nước Việt Nam và Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế. Tổ chức bộ máy được củng cố, kiện toàn, từng bước ổn định, cơ bản đáp ứng yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Phương thức, chế độ làm việc từng bước được cải tiến theo hướng phát huy dân chủ, tăng tính chủ động, sáng tạo, phối hợp tốt hơn giữa các đơn vị, cơ quan hữu quan…
Quốc hội đổi mới tổ chức và hoạt động, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ đã tạo ra nhiều nhân tố mới, góp phần tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân do Đảng lãnh đạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các kỳ họp của Quốc hội đã thực sự trở thành sự kiện chính trị cuốn hút và những phiên thảo luận về các dự án luật, tình hình kinh tế, xã hội, chất vấn và trả lời chất vấn sôi nổi, tâm huyết tại hội trường đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong cử tri và nhân dân cả nước. Hoạt động của Quốc hội đã làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần tăng cường sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, tạo ra một hình ảnh về sự năng động, dân chủ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Sở dĩ có được những kết quả nêu trên là do Quốc hội khoá XII đã không ngừng phát huy nhân tố nội lực, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo và áp dụng nhiều cải tiến trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ - thành quả của sự nỗ lực, quyết tâm, tinh thần trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội. Đồng thời, cũng là kết quả của tinh thần cộng tác, phối hợp chặt chẽ của Chủ tịch nước, Chính phủ, các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan hữu quan và sự đóng góp, ủng hộ của cử tri và nhân dân cả nước; sự kế thừa, phát huy, thành quả đạt được và kinh nghiệm của các nhiệm kỳ Quốc hội trước.
Tuy nhiên, Quốc hội khóa XII vẫn còn những hạn chế cả về tổ chức, hoạt động và phương thức, lề lối làm việc. Quy trình lập pháp tuy được cải tiến, nhưng vẫn chưa đồng bộ và có điểm chưa hợp lý. Trách nhiệm cơ quan trình dự án, cơ quan tham gia soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý cần tiếp tục được phân định rõ ràng hơn. Trong thảo luận, thông qua dự án, một số trường hợp chưa có sự tranh luận đầy đủ, đối thoại đến cùng. Một số quy định của Luật hoạt động giám sát còn thiếu cụ thể hoặc chưa thật phù hợp, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời, nhất là cơ chế giải quyết các kiến nghị sau giám sát. Công tác đảm bảo hoạt động giám sát cũng còn một số bất cập. Thông tin phục vụ Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước còn chưa đầy đủ, kịp thời. Chưa có cơ chế sử dụng các cơ quan chuyên môn độc lập thẩm định các vấn đề khoa học, kỹ thuật, tính chính xác của số liệu trước khi cung cấp đến đại biểu Quốc hội. Sự phối hợp công tác giữa các cơ quan của Quốc hội và giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan hữu quan có lúc còn chưa được nhịp nhàng, chặt chẽ.
2. Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong cả nhiệm kỳ khóa XII có thể rút ra một số vấn đề sau đây:
Một là, sự phát triển của Quốc hội là một quá trình liên tục kế thừa và không ngừng đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng. Kinh nghiệm thực tiễn của Quốc hội khóa trước luôn là bài học quý giá cho việc củng cố, nâng cao Quốc hội khóa sau. Mọi kết quả hoạt động của Quốc hội khóa sau là sự kế thừa và phát triển liên tục của Quốc hội khóa trước. Đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội cần được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ, từ việc thử nghiệm mô hình và cách thức, phương pháp cho đến đổi mới về thể chế pháp luật. Đổi mới phải được thực hiện một cách đúng đắn, bài bản, có định hướng mục tiêu rõ ràng, bước đi chắc chắn và mang lại hiệu quả thiết thực.
Hai là, tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, hoàn thành tốt trọng trách mà nhân dân ủy thác. Đây không chỉ là nguyên tắc trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước cũng như trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn là quan điểm chỉ đạo quá trình đổi mới, hoàn thiện nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động theo đúng định hướng chính trị của Đảng. Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước luôn gắn liền với việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, bao gồm đổi mới cả nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng.
Quốc hội luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng vào các hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng và trong hoạt động đối ngoại. Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng tạo khả năng xây dựng một cơ cấu tổ chức thống nhất của Quốc hội và là tiền đề để bảo đảm cho Quốc hội phát huy được vai trò của mình. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội chẳng những nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội mà còn bảo đảm thực hiện tốt các mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.
Ba là, phát huy dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là yêu cầu quan trọng tạo thêm sức mạnh và sự năng động, sáng tạo từ hệ thống chính trị của nước ta. Vừa qua, tại các kỳ họp, Quốc hội đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ, trách nhiệm, thảo luận, tranh luận đầy nhiệt huyết và xây dựng. Không ít các cuộc tranh luận, chất vấn tại nghị trường, các cuộc giám sát trong thực tiễn khá gay gắt và sôi nổi với nhiều lý lẽ có sức thuyết phục. Có những vấn đề được quyết định không dễ dàng mà phải cân đi nhắc lại, nâng lên đặt xuống nhiều lần, qua phân tích cọ xát từ nhiều góc độ, nhiều khía cạnh đã làm cho tính chính xác cao hơn, tạo sự đồng thuận tốt hơn, giúp công tác chỉ đạo điều hành thuận lợi và hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống và phù hợp với ý nguyện của đông đảo nhân dân.
Bốn là, chất lượng và hiệu quả thực hiện các chức năng của Quốc hội phụ thuộc phần lớn vào hoạt động của các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, nhất là các đại biểu Quốc hội chuyên trách. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban, chuyển trọng tâm hoạt động vào các cơ quan này; tăng cường chất lượng đại biểu Quốc hội có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Muốn vậy, cần có cơ chế, điều kiện để nhân dân lựa chọn được những người tiêu biểu vào Quốc hội; có những quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Quốc hội; trách nhiệm đại biểu chuyên trách; tăng cường quan hệ phối hợp công tác và bảo đảm các điều kiện hoạt động để phát huy vai trò nòng cốt đối với hoạt động chung của Quốc hội.
Sự đồng thuận, trách nhiệm của tập thể Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội; sự phối hợp có hiệu quả của Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan, tổ chức hữu quan và sự đóng góp tích cực của cử tri và nhân dân cả nước là yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần giúp Quốc hội hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao…
Năm là, gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân, nắm bắt đầy đủ, hiểu sâu sắc tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu chính đáng của nhân dân, trân trọng lắng nghe, phản ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân là nhân tố quan trọng bảo đảm cho Quốc hội có những quyết sách đúng đắn, phù hợp thực tiễn, góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Quốc hội, thu hút được sự quan tâm, ủng hộ, đóng góp ý kiến xây dựng và tăng cường niềm tin của cử tri, của nhân dân đối với Quốc hội.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất