* GS, TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cách đây 160 năm, ngày 24-2-1848, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - một tác phẩm lý luận bất hủ, một văn kiện mang tính cương lĩnh chính trị giàu sức sống thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản khoa học - do C. Mác và Ph. Ăng-ghen soạn thảo đã được xuất bản lần đầu tiên tại Luân Đôn (thủ đô nước Anh). Từ đó tới nay, dù thế giới đã trải qua biết bao biến đổi thăng trầm, nhưng Tuyên ngôn vẫn luôn luôn là cơ sở lý luận khoa học, ngọn cờ tư tưởng, ngôi sao dẫn đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Và chắc chắn nó sẽ còn mãi với thời gian trong lịch sử phát triển tư tưởng của nhân loại.
Sở dĩ Tuyên ngôn có sức sống lâu bền và giá trị to lớn như thế trước hết là bởi nội dung của nó mang tính cách mạng và khoa học rất sâu sắc. C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải một cách khoa học về quy luật khách quan của sự phát triển xã hội; về vị trí và ý nghĩa quan trọng của sản xuất vật chất cũng như vai trò của kiến trúc thượng tầng; về quá trình phát sinh, phát triển và sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản; về vai trò, sứ mệnh lịch sử và phương hướng đấu tranh của giai cấp công nhân hướng tới xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh... Đúng như V.I. Lê-nin nhận định, Tuyên ngôn "trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng - trong lịch sử toàn thế giới - của giai cấp vô sản, tức là giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản"(1).
Từ khi Tuyên ngôn ra đời đến nay, thế giới đã chứng kiến biết bao sự biến đổi sâu sắc. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chế độ xã hội chủ nghĩa ra đời và cho đến nay đã tồn tại gần một thế kỷ không phải là điều ngẫu nhiên mà là tất yếu lịch sử. Xét cho cùng, đó là kết quả của sự vận động, phát triển những mâu thuẫn chín muồi ngay từ trong lòng của chủ nghĩa tư bản. Hiện nay, hơn một tỷ người vẫn đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội khoa học, cũng không phải do chủ nghĩa xã hội "không hợp thời", mà do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có việc nhận thức sai và làm sai quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội, duy trì quá lâu một mô hình không còn thích hợp. Chủ nghĩa xã hội không thể sụp đổ nếu các Đảng Cộng sản có đường lối cải tổ, cải cách đúng đắn. Thoái trào của chủ nghĩa xã hội hiện nay chỉ là tạm thời, bởi chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Chủ nghĩa tư bản tuy còn tiềm năng phát triển, song nó không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn nội tại đang ngày càng sâu sắc, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa cao độ với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như Tuyên ngôn đã dự báo cách đây 160 năm. Tuy đang nắm trong tay quyền lực to lớn, các phương tiện hiện đại, nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn không thể giải quyết được những vấn đề bất công, áp bức xã hội, áp bức dân tộc, phân cực giàu nghèo, hủy hoại môi trường... Chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa ngày càng tạo ra những nhân tố tự phủ định nó, đồng thời hình thành những tiền đề cho chủ nghĩa xã hội nảy sinh. Đúng như C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định trong Tuyên ngôn: "Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau".
Thực tế lịch sử nói lên rằng, kể từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, nhân loại đã bước vào thời đại phát triển mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đó là thời đại lịch sử lâu dài, quanh co phức tạp, có lúc chủ nghĩa xã hội ở thế tiến công, có lúc chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào; có lúc chủ nghĩa tư bản khủng hoảng toàn diện, nghiêm trọng, tưởng như sụp đổ đến nơi, có lúc chủ nghĩa tư bản lấy lại được sức lực, tạo được sự phát triển kỳ diệu. Đó là sự vận động biện chứng tự nhiên của thời đại quá độ mà Tuyên ngôn đã dự báo. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để nói rằng, sau 160 năm ra đời, Tuyên ngôn chẳng những vẫn còn nguyên giá trị nhân đạo cộng sản cao cả mà còn chứa đựng những chân lý, những quy luật chung nhất cho tiến trình phát triển lịch sử xã hội. "Tinh thần của nó, đến bây giờ, vẫn đang cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh" (2).
Đối với Việt Nam, được soi sáng bởi tư tưởng của Tuyên ngôn nói riêng và Chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung, gần 78 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua biết bao khó khăn thử thách, huy động được mọi nguồn lực của đất nước, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, giành thắng lợi vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ và đang từng bước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục đích cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn: đó là giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách áp bức bóc lột, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nội dung của đường lối đổi mới chính là thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới. Đại hội VI (12-1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức cán bộ; từ đổi mới phương pháp lãnh đạo đến phong cách công tác; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị, tư tưởng, văn hóa... Đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Song đó hoàn toàn không phải là sự thay đổi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn bằng những quan niệm đúng đắn và những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
…. Kỷ niệm 160 năm ngày Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, nhìn lại chặng đường hơn 20 năm đổi mới ở nước ta, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn và tin tưởng vững chắc vào các giá trị của Tuyên ngôn về những nguyên lý cơ bản của thế giới quan cách mạng, về các phương pháp luận khoa học trong việc xem xét và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Đó là cơ sở lý luận và phương pháp luận để Đảng ta tổ chức và lãnh đạo cách mạng nước ta đi tới thắng lợi. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, học thuyết Mác - Lê-nin nói chung, Tuyên ngôn nói riêng, luôn luôn sinh động và không ngừng phát triển. Tuyên ngôn là tuyên ngôn của thời đại đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp.
…………………………………………………………………
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, t 26, tr 57
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va 1978, t 2, tr 10
* PGS, TSKH. Trần Nguyễn Tuyên, Viện trưởng Viện Kinh điển Mác - Lê-nin
Có thể khẳng định đây là bản cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa xã hội khoa học, trong tác phẩm này hai ông đã phân tích và khẳng định sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới. Những nội dung cơ bản của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có sức sống và giá trị to lớn bởi đó là sản phẩm của tư duy khoa học trên cơ sở tổng kết thực tiễn mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã tiến hành. Trong Tuyên ngôn cũng thể hiện rõ mối quan hữu cơ giữa ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác là triết học mác-xít, kinh tế chính trị học mác-xít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
… Khác với quan điểm của các nhà kinh tế tư sản cho rằng chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn, trong Tuyên ngôn xuất phát từ kết cấu kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở phân tích các mâu thuẫn nội tại trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản mang tính lịch sử; phù hợp với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng một chế độ xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản.
… Trong Tuyên ngôn, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã phát triển và đề ra luận điểm chứng minh các điều kiện khách quan về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự hình thành các tiền đề chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng, có khả năng thực hiện cách mạng vô sản, thủ tiêu chế độ cũ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới - cộng sản chủ nghĩa. Và, giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình mà nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, những công nhân hiện đại, những người vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã đi từ đơn lẻ, tự phát đến tự giác, có tổ chức với sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân, chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị. C. Mác và Ph. Ăng-ghen vạch rõ bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể hoàn thành thông qua những cải tạo căn bản trong quan hệ sở hữu và trong toàn bộ hệ thống các quan hệ sản xuất. Nhưng để làm được điều đó, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và giai cấp vô sản phải nắm được chính quyền. Tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa là nội dung cốt yếu của toàn bộ tác phẩm, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã khẳng định họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có.
.…. Các nhà kinh điển cũng khẳng định tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của các nước khác nhau mà những biện pháp áp dụng sẽ phải khác nhau, không có một khuôn mẫu chung cho mọi quốc gia. Trong Tuyên ngôn, chế độ sở hữu được xem xét trong quá trình phát triển của lịch sử theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong sự phát triển của mình, thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự hình thành phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên đến giai đoạn nhất định, những quan hệ sản xuất này trở nên chật hẹp, trở thành sức cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và những quan hệ người bóc lột người dựa trên cơ sở đó đã kìm hãm sự phát triển của xã hội. Các ông đã khẳng định chế độ sở hữu tư sản là đại biểu cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người khác. Với việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã làm thay đổi căn bản mục đích của nền sản xuất xã hội, thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người.
… Mặc dù đã ra đời cách đây 160 năm nhưng những nội dung và tư tưởng của tác phẩm rất có giá trị tinh thần to lớn trong việc cung cấp thế giới quan và phương pháp giải quyết các vấn đề nảy sinh của thực tiễn hiện nay. Đặc biệt vào những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, một số người cho rằng lịch sử phải chăng kết thúc ở chủ nghĩa tư bản, tột đỉnh của văn minh loài người. Một số lập luận khác cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất với các hình thức mới như: "Chủ nghĩa tư bản nhân dân", "Chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh", "Xã hội hậu công nghiệp", "Chủ nghĩa tư bản của người lao động"... Song trên thực tế chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi bản chất và mâu thuẫn cơ bản của nó gắn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất - điều này đã được khẳng định trong Tuyên ngôn. Các trào lưu phê phán chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội mới xuất hiện gần đây như thuyết "Xung đột các nền văn minh", "Sự tận cùng của lịch sử", thuyết “Chính đáng”, thuyết “Chủ nghĩa xã hội mới"... chung quy đều tập trung vào phủ nhận những nội dung của những học thuyết mang tính khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, học thuyết giá trị thặng dư và phủ nhận tính chất thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đang diễn ra hiện nay.
Đảng ta khẳng định mặc dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất thời đại: Loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Toàn cầu hóa là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh, tạo ra thời cơ và thách thức cho các quốc gia nhất là các nước đang phát triển. Đảng đã đánh toàn diện hơn về chủ nghĩa tư bản, chỉ ra mặt mạnh và mặt yếu, những mâu thuẫn nội tại, khó khăn, khuyết tật của nó. Nhờ áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ vào sản xuất, đổi mới phương pháp quản lý và tổ chức lại nền kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã kích thích phát triển kinh tế. Tuy nhiên nó vẫn không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có và đang tích tụ, làm trầm trọng hơn mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản… Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta trong việc nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Chu Thái Thành, Nhà báo, Tạp chí Cộng sản.
…. Chủ nghĩa xã hội thế giới đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng. Các thế lực thù địch nhân cơ hội này ráo riết tấn công vào Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc và có hệ thống Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, luận giải nó trong tình hình hiện nay là vấn đề mang tính thời sự cấp bách về lý luận, chính trị để giữ vững lòng tin có cơ sở khoa học vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của các nhà tư tưởng tư sản và bọn cơ hội “đục nước béo cò”.
Đây là tác phẩm quan trọng nhất của Chủ nghĩa Mác sau bộ Tư bản. Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phân tích một cách hết sức sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, cơ cấu giai cấp - xã hội của nó và khởi thảo ra vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Xác định đặc điểm, nội dung của Tuyên ngôn, trong lời tựa đề cho lần xuất bản thứ 3 bằng tiếng Đức (1883), Ph.Ăng-ghen đã viết: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội; những cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản), không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp”.
Quan điểm có tính khoa học đó đã giáng một đòn chí mạng vào chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong việc giải thích các hiện tượng xã hội. Xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng luận điểm hết sức đúng đắn là: sự xuất hiện các giai cấp trong xã hội và theo sau đó là sự đối kháng giữa các giai cấp đều do sự phát triển về kinh tế của xã hội gây ra; sự xuất hiện của chế độ tư hữu và sự thay đổi về các hình thức của nó là cơ sở của quá trình lịch sử đó. Quy luật xã hội cơ bản được dùng làm cơ sở cho lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Những nhà lý luận trước C.Mác chỉ mới xác định về mặt kinh nghiệm sự kiện cuộc đấu tranh giai cấp và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh đó đối với đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Còn C.Mác trong khi cùng xuất phát từ các sự kiện về cuộc đấu tranh giai cấp, đã chỉ ra cơ sở kinh tế của nó và vạch ra một lý luận hoàn chỉnh. Sự khác nhau căn bản giữ C.Mác với các nhà không tưởng trước ông là ở chỗ đó. C.Mác đã gắn cuộc đấu tranh giai cấp với từng mặt phát triển kinh tế của xã hội. Ông phát hiện ra mối liên hệ bên trong của sự tồn tại các giai cấp, của tính chất và nội dung cuộc đấu tranh giai cấp, gắn với các giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ đó vấn đề đấu tranh giai cấp trong xã hội, đặc biệt là trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã được giải quyết về mặt lý luận.
Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đưa ra quy luật phát triển cơ bản về mặt xã hội của các xã hội có đối kháng giai cấp. Tuyên ngôn chỉ ra: “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay (tức là toàn bộ lịch sử thành văn) chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Kết cấu xã hội của xã hội bao giờ cũng phản ánh phương thức sản xuất đi theo với sự đối kháng giữa các giai cấp mà nó vốn có. Phương thức sản xuất quyết định yếu tố tồn tại về mặt xã hội của giai cấp. Vai trò của một giai cấp trong việc tổ chức lao động của xã hội bắt nguồn từ đó.
… Mặc dù nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày nay đã phát triển đến một trình độ cao, tạo ra lực lượng sản xuất khổng lồ, nhưng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn diễn ra hết sức gay gắt. Chủ nghĩa tư bản đã phải thường xuyên đương đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp của hàng chục triệu người. Phong trào công nhân tuy đứng trước những thử thách nặng nề, nhưng nhìn toàn cục của sự phát triển lực lượng sản xuất vẫn đang bị những tiền đề khách quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Cho nên, luận điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nền công nghiệp lớn hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất và xã hội để thủ tiêu chế độ người bóc lột người vẫn giữ nguyên giá trị khoa học.
…. Trong khi chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đồng thời nhấn mạnh đến vai trò của đảng, bảo đảm cho giai cấp này có thể hoàn thành được sự nghiệp của mình. Hai ông coi Đảng Cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản. Mục đích và lợi ích của Đảng Cộng sản và của giai cấp vô sản là thống nhất. Về cả lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản luôn luôn đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Không thể tách rời Đảng Cộng sản ra khỏi giai cấp, hoặc ngược lại, lẫn lộn Đảng Cộng sản với giai cấp vô sản...
C.Mác và Ph.Ăng-ghen cũng khẳng định rằng, Đảng Cộng sản chẳng những là một bộ phận mà còn là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Nhưng người cộng sản khác những người vô sản bình thường ở chỗ họ có tư tưởng cách mạng tiên tiến và bao giờ cũng đứng ở hàng đầu của phong trào cộng sản. Họ nhận thức rõ những bước phát triển tất yếu của quá trình lịch sử và mục tiêu tiến tới của phong trào vô sản. Do đó, họ có khả năng động viên, hướng dẫn, lôi kéo những người còn lại của giai cấp vô sản, cùng với các tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc đấu tranh tự giải phóng, Với tính chất như thế, những người cộng sản là những phần tử ưu tú nhất, giác ngộ và tích cực cách mạng nhất trong các tầng lớp nhân dân lao động. Không có Đảng Cộng sản thì cách mạng không thể thành công, sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân cũng không thể thực hiện được. Đây là những vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc, là bài học còn nóng hổi mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra cho chúng ta.
Từ sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội cố tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đang “hội tụ” vào chủ nghĩa tư bản; rằng: chủ nghĩa tư bản đã thay đổi căn bản khác xa với thời C.Mác còn sống; giai cấp công nhân đã có mức sống cao, có tư liệu sản xuất, có cổ phần nên không bị bóc lột nữa. Do sự tác động của khoa học công nghệ, giai cấp công nhân ngày càng nhỏ bé vì số người sản xuất vật chất ngày một ít. Vì thế, họ cho rằng: giai cấp công nhân đang “hòa tan” vào chủ nghĩa tư bản và không còn là giai cấp trung tâm của xã hội; rằng: vai trò của công nhân đã thuộc về tầng lớp trí thức; trí thức hiện nay là chủ thể của xã hội, là lực lượng cơ bản thúc đẩy lịch sử tiến lên. Từ đó họ vội vàng đi đến kết luận: sứ mệnh lịch sử xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu ra trong Tuyên ngôn là không còn giá trị nữa?
Thực tế hiện nay đang phủ nhận những lập luận thù địch nêu trên. Tại các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, tuy giai cấp công nhân có mức sống cao hơn nhiều so với trước đây, nhưng vẫn bị giai cấp tư bản bóc lột với tỷ suất giá trị thặng dư ngày càng tăng. Do việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất nên trình độ tri thức về khoa học công nghệ của công nhân ngày càng được nâng cao. Cơ cấu thành phần công nhân cũng có sự thay đổi. Tỷ lệ công nhân trong sản xuất ngày càng nhỏ, công nhân trong các lĩnh vực thông tin, dịch vụ ngày càng lớn, và có sự chuyển hóa bộ phận giữa công nhân hiện đại với trí thức hiện đại. Xét trên khía cạnh này, khái niệm giai cấp công nhân đã được mở rộng gồm cả những người kỹ thuật viên, và một bộ phận kỹ sư, những người lao động làm thuê khác. Sản xuất vật chất của công nhân là chủ yếu và quyết định.
Thực tiễn cho thấy quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa dù có mở rộng và hiện đại đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi như thế nào, vẫn không ngừng tái sinh ra quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh mà giai cấp công nhân tiến hành nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, dù có trải qua những bước thăng trầm, nhưng vẫn đang diễn ra theo đúng quy luật khách quan của lịch sử.
…. Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước hôm nay như Tuyên ngôn đã chỉ rõ: Phải có đảng lãnh đạo, giai cấp công nhân mới làm tròn sứ mệnh tiền phong của mình. Thực tế ngày nay cho thấy, lời cảnh tỉnh hùng hồn của Ph.Ăng-ghen là hết sức đúng đắn: Bất cứ một Đảng Cộng sản nào, hễ đi chệch cương lĩnh, sách lược đó thì đều phải trả ngay một giá đắt. 160 năm đã trôi qua Tuyên ngôn của đảng cộng sản vẫn không “lỗi thời”, không “bị lịch sử đẩy lùi về quá khứ” mà đã, đang và mãi mãi có giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn lớn lao đối với giai cấp công nhân nước ta, cũng như giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.
* TS. Doãn Hùng, Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực I - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết cách đây 160 năm là sự "công khai trình bày trước toàn thể thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ" của những người cộng sản và "đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản". Với Tuyên ngôn, những người cộng sản không hề giấu giếm mục đích của mình về lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những chỉ dẫn của Tuyên ngôn đã được các đảng cộng sản thế giới vận dụng vào thực tế phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa suốt thế kỷ XX, mà Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những đảng vận dụng và phát triển sáng tạo, đem lại những thành tựu vĩ đại, đóng góp vào sự phát triển của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu có những luận điểm đúng đắn được nêu ra trong Tuyên ngôn, nhưng do chủ quan, giáo điều nên đã hiểu và làm không đúng với tinh thần của C. Mác - Ph. Ăng-ghen. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng và quá trình đổi mới tư duy lý luận chúng ta có điều kiện hiểu biết thấu đáo hơn. Bài viết này xin nêu lên 2 nội dung mà Tuyên ngôn đã nêu ra và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng, phát triển trong công cuộc đổi mới. Đó là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất và tác động của thời đại đối với quốc gia dân tộc.
- Nghiên cứu quan niệm của Tuyên ngôn về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, trước đây chúng ta thường trích dẫn luận điểm "những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu". Từ trích dẫn như vậy đã dẫn tới nhận thức phiến diện và tiến hành xóa bỏ các hình thức sở hữu tư nhân, thiết lập chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất sau khi đã giành được chính quyền. Cơ sở lý luận bảo đảm vững chắc cho việc thủ tiêu các hình thức chiếm hữu tư nhân về các tư liệu sản xuất, là được giải thích rằng nó đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
Song đến nay, nhờ được kiểm nghiệm bằng thực tế cũng như nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống hơn tinh thần của Tuyên ngôn, chúng ta thấy đây là sự cắt xén trong viện dẫn chủ nghĩa Mác là nguyên nhân dẫn đến những nhận thức lệch lạc về vấn đề sở hữu đã nêu trong Tuyên ngôn. Chúng ta chỉ giải thích rằng trong Tuyên ngôn các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định phải "xóa bỏ chế độ tư hữu" nhưng lại quên rằng ở ngay dòng trên đó các ông đã viết: "Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản". Vẫn dòng tư tưởng ấy, các ông viết tiếp: đối với những sở hữu được "làm ra, kiếm được một cách lương thiện và do lao động của bản thân", những "hình thức sở hữu có trước sở hữu tư sản, tức là sở hữu của người tiểu tư sản, của người tiểu nông" thì chúng ta "cần gì phải xóa bỏ cái đó", mà chính "sự phát triển của công nghiệp đã xóa bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xóa bỏ cái đó rồi". Không dừng lại ở đó, Tuyên ngôn đanh thép khẳng định: "Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác".
Từ những viện dẫn trên cho thấy, trong Tuyên ngôn các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phân biệt rất rõ giữa chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu trong chủ nghĩa tư bản. Cái mà những người cộng sản sau khi giành được chính quyền cần phải xóa bỏ là chế độ sở hữu tư bản - với tư cách chế độ sở hữu của chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa. Còn các hình thức sở hữu tư nhân trong lòng chủ nghĩa tư bản, những người cộng sản phải có thái độ đúng mực, nhất là đối với sở hữu của những người tiểu nông thì chính quá trình công nghiệp hóa sẽ tự xóa bỏ nó rồi. Điều này, trong tác phẩm "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản", dưới hình thức câu hỏi và đáp, trả lời câu hỏi thứ mười bảy "Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?", Ph. Ăng-ghen đã không ngần ngại trả lời "Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu".
Trong Tuyên ngôn, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng rất thận trọng khi nêu các biện pháp giải quyết vấn đề sở hữu ngay sau khi những người cộng sản nắm được chính quyền: "Cố nhiên, điều đó (tức vấn đề giai cấp vô sản tổ chức thành giai cấp thống trị - tác giả chú) lúc đầu chỉ có thể thực hiện được bằng cách xâm phạm một cách chuyên chế vào quyền sở hữu và vào những quan hệ sản xuất tư sản, nghĩa là bằng những biện pháp, mà về mặt kinh tế thì hình như không được đầy đủ và không có hiệu lực, nhưng trong tiến trình vận động, những biện pháp ấy sẽ vượt quá bản thân chúng và là thủ đoạn không thể thiếu để đảo lộn toàn bộ phương thức sản xuất". Đồng thời các ông cũng lưu ý rằng "trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều".
Phân tích tiếp về mâu thuẫn giữa chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất, các ông cho rằng "trong xã hội hiện nay của các ông, chế độ tư hữu đã bị xóa bỏ đối với chín phần mười số thành viên của xã hội đó rồi; chính vì nó không tồn tại đối với số chín phần mười ấy, nên nó mới tồn tại được". Nhìn nhận về sự vận động của hình thái cổ phần hóa trong chủ nghĩa tư bản, rõ ràng quan hệ sở hữu đã biến đổi do tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất và trong bộ Tư bản đã phân tích rất sắc sảo. Dĩ nhiên, nhà tư bản biết rằng, nếu để sở hữu vận động theo hướng cổ phần hóa với sự tham gia của cổ đông là rộng rãi người lao động thì nó sẽ không còn là nó nữa, mà đó lại là quá trình phi chủ nghĩa tư bản và điều này càng thấy rõ trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Vì vậy, nhà tư bản thường xuyên tìm cách khống chế cổ phần chi phối bằng cách này hay cách khác, hình thức này hay hình thức khác. Hiện nay, quan hệ sở hữu vẫn biến đổi dưới áp lực của toàn cầu hóa, của sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, song những chỉ dẫn của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học vẫn còn giá trị, nhắc nhở chúng ta hãy thận trọng khi đề ra biện pháp tác động. Xác định sở hữu là mục đích hay phương tiện trên con đường tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì cần tiếp tục nghiên cứu công phu, nghiêm túc, nhưng rõ ràng đây là vấn đề mà ngay cả trong Tuyên ngôn C. Mác và Ph. Ăng-ghen cũng nêu ra và đề ra biện pháp xử lý dè dặt, thận trọng - nếu không muốn nói là còn điều chỉnh nhận thức trong quá trình hoàn thiện học thuyết của mình. Việc khẳng định nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, với sự phát triển mạnh mẽ của loại hình sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư bản tư nhân, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước,... đã tạo nên những xung lực mới cho nền kinh tế, một lần nữa khẳng định chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về quan hệ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về sự nhận thức và vận dụng đúng đắn quan niệm sở hữu trong Tuyên ngôn. Quan điểm Đại hội X của Đảng (4-2006) về xóa bỏ mọi hình thức ưu đãi theo hình thức sở hữu (mà chỉ ưu đãi theo mục tiêu hoặc chương trình) là một bước tiến nêu trên trong nhận thức về sở hữu.
- Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ rõ những chuyển biến của thời đại kể từ khi giai cấp tư sản ra đời, với những cải biến về công cụ sản xuất, về phát kiến địa lý tìm ra châu Mỹ và con đường vòng quanh thế giới. Những nhận định của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về một thế giới ngày càng gắn kết nhau thành một thị trường thống nhất đã, đang và sẽ được kiểm chứng trong thời kỳ toàn cầu hóa. Trên tinh thần ấy, Tuyên ngôn cho rằng "Việc tìm ra châu Mỹ và con đường biển vòng châu Phi đã đem lại một địa bàn hoạt động mới cho giai cấp tư sản vừa mới ra đời. Những thị trường Đông - Ấn và Trung Quốc, việc thực dân hóa châu Mỹ, việc buôn bán với thuộc địa, việc tăng thêm nhiều tư liệu trao đổi và nói chung tăng thêm nhiều hàng hóa, đã đem lại cho thương nghiệp, cho ngành hàng hải, cho công nghiệp, một sự phát đạt chưa từng có, và do đấy, đã đem lại một sự phát triển mau chóng cho yếu tố cách mạng trong xã hội phong kiến đang tan rã". Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới quá trình kinh tế thế giới đã được các ông nhìn nhận sâu sắc: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thị trường mà việc tìm ra châu Mỹ đã chuẩn bị sẵn. Thị trường thế giới thúc đẩy cho thương nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển nhanh chóng lạ thường. Sự phát triển này lại tác động trở lại đến việc mở rộng công nghiệp; mà công nghiệp, thương nghiệp, hàng hải, đường sắt càng phát triển thì giai cấp tư sản càng lớn lên, làm tăng những tư bản của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại xuống phía sau". Tuyên ngôn là một trong những tác phẩm đầu tiên trên thế giới có cách nhìn sâu sắc và biện chứng về quá trình quốc tế hóa của sản xuất và tiêu dùng: "Do bóp nặn thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới. Những ngành công nghiệp dân tộc cũ đã bị tiêu diệt và đang ngày càng bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mới, tức là những ngành công nghiệp mà việc du nhập chúng trở thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn minh, những ngành công nghiệp không dùng những nguyên liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu đưa từ những miền xa xôi nhất trên trái đất đến và sản phẩm làm ra không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa. Thay cho những nhu cầu được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong nước, thì nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng những sản phẩm đưa từ những miền và xứ xa xôi nhất về. Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế. "Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới". Tuyên ngôn cũng đã chỉ rõ vai trò của sự cải biến công cụ sản xuất đối với quá trình phát triển lực lượng sản xuất mang tính toàn thế giới: "Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản đã lôi cuốn đến những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh", "Giai cấp tư sản bắt nông thôn phải phục tùng thành thị"; "Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại. Sự chinh phục lực lượng thiên nhiên, sự sản xuất bằng máy móc, việc áp dụng hóa học vào công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng lục địa nguyên vẹn, việc khai thông các dòng sông cho tàu bè đi lại được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, - có thế kỷ nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội!".
Những chỉ dẫn của Tuyên ngôn, đến nay đã 160 năm vẫn còn nóng hổi tính thời sự về quá trình sản xuất và tiêu dùng mang tính thế giới, về chuyển biến của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Đành rằng, từ khi Tuyên ngôn ra đời đến nay, thế giới đã trải qua nhiều lần chuyển biến từ cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất sang cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai và lần thứ ba, đã làm cho thế giới chuyển từ quốc tế hóa sang toàn cầu hóa, với phạm vi rộng lớn hơn, cường độ mạnh mẽ hơn và diễn biến phức tạp hơn. Tinh thần của Tuyên ngôn vẫn còn cảnh tỉnh các dân tộc nhỏ yếu về tham vọng mở rộng thị trường của tư bản, dù dưới hình thức này hay hình thức, để từng bước thiết lập thị trường mang tính chất thế giới. Cách mạng khoa học - công nghệ với những bước phát triển nhảy vọt chưa từng thấy, tạo ra những biến đổi căn bản của nền sản xuất vật chất thế giới, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật liệu mới. Nó làm cho thế giới ngày thu nhỏ lại, không gian rút ngắn, với năng suất lao động cao hơn và đưa lại những tiện lợi cho con người trong thụ hưởng nhu cầu vật chất và tinh thần. Nhưng thành tựu phát triển của nền văn minh thế giới đang nằm trong tay một nhóm quốc gia giàu có, mà chi phối nó là các tập đoàn đa quốc gia. Họ vừa chi phối vốn, công nghệ và các luật chơi của thế giới thông qua các thể chế đa phương. Điều đó làm cho khoảng cách trình độ về phát triển giữa các nước ngày càng bị đẩy ra xa hơn. Toàn cầu hóa là quá trình khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhất là cải biến công cụ sản xuất, phương tiện giao thông, liên lạc, nhưng lại bị các siêu cường lợi dụng để thực hiện tham vọng thao túng thị trường thế giới. Tham vọng ấy đã được Tuyên ngôn lột tả, phơi trần toàn bộ - đó là việc "bắt những nước dã man hay nửa dã man phải phụ thuộc vào các nước văn minh, nó đã bắt những dân tộc nông dân phải phụ thuộc vào những dân tộc tư sản, bắt phương Đông phải phụ thuộc vào phương Tây". Đành rằng, sau khi Tuyên ngôn ra đời 160 năm, thế giới về cơ bản đã phi thực dân hóa, nhưng các thế lực tư bản vẫn không từ bỏ âm mưu sử dụng các ưu thế về vốn, về công nghệ, về thao túng mạng lưới thương mại toàn cầu để tiếp tục ràng buộc các nước nhỏ, chậm phát triển. Những chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam gần đây về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế là một minh chứng hùng hồn về đưa dân tộc ta hội nhập vào quỹ đạo vận động chung của thế giới, tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế - với tư cách là một quá trình khách quan như tinh thần Tuyên ngôn đã chỉ rõ. Đồng thời, chúng ta phải xử lý mối quan hệ giữa mở rộng hợp tác quốc tế với bảo vệ độc lập dân tộc, chống các mưu toan và sức ép thủ tiêu nền độc lập của dân tộc bằng các biện pháp phi vũ trang, nhất là trong bối cảnh mà chủ quyền quốc gia truyền thống đã biến đổi.
Toàn cầu hóa kinh tế với sự gỡ bỏ dần hàng rào quan thuế đã làm cho biên giới giữa các quốc gia về mặt kinh tế gần như rất mong manh. Gia nhập WTO với yêu cầu phải tuân theo luật lệ chung của thế giới đặt ra sức ép nặng nề đối với một nền kinh tế còn nghèo và chậm phát triển như Việt Nam. Gia nhập WTO buộc phải điều chỉnh hệ thống luật pháp cho phù hợp những cam kết mà đối tượng điều chỉnh của nó là mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Ban hành luật pháp theo ý chí của nhân dân là nội dung trước hết và quan trọng thể hiện chủ quyền quốc gia, nhưng giờ đây đã buộc phải "nhân nhượng". Toàn cầu hóa kinh tế cũng buộc phải chia sẻ thông tin - mà có những thông tin trước đây được xem là bí mật quốc gia - để cùng nhau giải quyết những vấn đề thế giới. Sự xuất hiện và phát triển của hệ thống truyền thông toàn cầu (nhất là truyền hình và in-tơ-nét), bên cạnh những hữu ích đưa lại cho con người, cũng đặt ra những thách thức trực tiếp trong bảo vệ nền văn hóa dân tộc, đề kháng với toàn cầu hóa về văn hóa. Toàn cầu hóa cũng đặt ra sự lệ thuộc ngày càng chặt chẽ của nước ta với thế giới, bao gồm cả vốn, thị trường, nguyên liệu, hàng hóa và dịch vụ - lẽ dĩ nhiên đó không phải là sự lệ thuộc một chiều mà là ràng buộc hai chiều. Giờ đây, chỉ một chấn động nhỏ từ thế giới bên ngoài về giá cả, khủng hoảng tài chính, khủng hoảng dịch bệnh - nhất là dịch bệnh phi truyền thống - đều có thể tác động nhanh chóng đến Việt Nam và hậu quả của nó đối với chủ quyền quốc gia chưa hề tính được. Các nước lớn, các thế lực thù địch không phải không chờ đợi những chấn động như thế để can thiệp vào chủ quyền quốc gia, buộc Việt Nam vào sự chi phối và thao túng của họ. Tất cả những vấn đề đó của toàn cầu hóa đang đặt ra trước mắt Đảng và dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển, có những vấn đề phải chủ động nắm lấy để thúc đẩy cải cách, có những vấn đề phải tiếp tục quan sát sự vận động của thực tiễn để định dạng và tìm ra giải pháp tác động phù hợp. Thế giới còn đổi thay, nhưng tinh thần của Tuyên ngôn sáng mãi, tiếp tục soi sáng đường chúng ta đi. Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng mác-xít chân chính - vẫn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo những tinh thần của Tuyên ngôn trong thời kỳ mới để vững bước trên con đường đã chọn.
Hà Thư thực hiện