1. Tầm quan trọng của công tác cán bộ
Cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”. Đây là công tác đối với con người nên rất hệ trọng và nhạy cảm. Xây dựng Đảng là xây dựng tổ chức và xây dựng con người nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và đường lối chính trị trong mỗi giai đoạn cách mạng. Trong khi đó, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đã và đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới hết sức to lớn. Đó là những yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh... Vì thế, đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Từ những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cũng như xuất phát từ nhưng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, Trung ương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ, ban hành Nghị quyết về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã chỉ đạo xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực... Nhờ đó, công tác cán bộ được đổi mới mạnh mẽ, ngày càng đi vào nền nếp, chất lượng đội ngũ cán bộ từng bước được nâng cao, cơ bản bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển.
Tuy nhiên, công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ đang bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Công tác cán bộ đổi mới chưa tương xứng với đổi mới kinh tế, chưa gắn chặt với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy viên là nữ, trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra. Đặc biệt, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa lan tỏa sâu rộng... Bên cạnh đó, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị lợi dụng những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trong công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ để bôi nhọ, tác động xấu đến đội ngũ cán bộ, hạ thấp uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước… gây hoang mang, chia rẽ nội bộ, làm ly tán lòng dân với Đảng và Nhà nước. Thực tế này đặt ra cho Đảng ta những yêu cầu mới và công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ càng trở nên cấp thiết.
2. Tình hình thế giới và yêu cầu phát triển của thời kỳ mới
Trên thế giới, hòa bình, hợp tác, ổn định và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo nhưng cục bộ vẫn có xung đột, căng thẳng, bất ổn, tiềm ẩn những yếu tố, những diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường vượt ra ngoài dự báo thông thường. Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên; việc điều chỉnh chiến lược và sự cạnh tranh gay gắt, toàn diện giữa các nước lớn (nhất là giữa Mỹ với Nga, Trung Quốc, EU) khiến các nước nhỏ liên tục bị chi phối và phải ứng phó với các biến động khó lường. Nói một cách khác, trật tự chính trị quốc tế đang chuyển dịch mạnh mẽ, vị trí, vai trò của các quốc gia không còn như trước, sự cạnh tranh ấy diễn ra trong cả quan hệ song phương lẫn đa phương, sự tập hợp lực lượng đan xen phức tạp, mâu thuẫn bùng phát ngay giữa các nước đồng minh, nhiều luật chơi đã định hình nhiều năm qua đã bị thay đổi hay đang đứng trước những thách thức mới. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có ASEAN tiếp tục là khu vực phát triển năng động, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây chia rẽ, căng thẳng, mất ổn định, nhất là vấn đề Biển Đông. Cuộc đối đầu thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, những chuyển dịch căn bản về chất và lượng của nền kinh tế toàn cầu, xu hướng hội nhập, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự xung đột về lĩnh vực tư tưởng của các nền văn minh, vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh (Covid-19) và sự phát triển của mạng xã hội, in-tơ-nét.. tiếp tục là những khó khăn, thách thức lớn đối với nước ta.
Ở trong nước, tình hình chính trị tiếp tục được duy trì ổn định, sự nghiệp đổi mới, quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng tiếp tục được đẩy mạnh. Độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiện toàn hệ thống chính trị được đẩy mạnh; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đạt nhiều kết quả rõ rệt; mối quan hệ gắn bó mật thiết và lòng tin của nhân dân đối với Đảng không ngừng được củng cố, nâng cao. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó đã tạo nên cơ đồ, vị thế và uy tín của đất nước ta như ngày nay.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội nước ta tuy đã có bước phát triển nhưng chưa thực sự vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa phát huy đầy đủ giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam. Tình hình chính trị, an ninh quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn một số yếu kém, bất cập; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế. Trong khi đó, việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, ô nhiễm môi trường... đang là những vấn đề rất lớn đối với nước ta. Các thế lực thù địch, phản động ráo riết chống phá Đảng, Nhà nước, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm hơn, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Trước đòi hỏi của thời kỳ mới, Hội Nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Nghị quyết 26 đã đưa ra mục tiêu tổng quát được xác định là xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh vào năm 2045. Ngoài việc xác định mốc thời gian đến năm 2030, mục tiêu tổng quát đã tính đến tầm nhìn 2045, thời điểm 100 năm kỷ niệm ngày thành lập Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, Nghị quyết cũng đưa ra mục tiêu cụ thể theo ba mốc thời gian đến năm 2020, năm 2025 và năm 2030[3].
3. Một số vấn đề cần quan tâm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, trong giai đoạn tới cần tiếp tục quan tâm đẩy mạnh thực hiện một số nhiệm vụ như sau:
Quán triệt thực hiện “Năm quan điểm”
Xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới phải bám sát và quán triệt 5 quan điểm có tính nguyên tắc, xuyên xuốt, được Trung ương đưa ra tại Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII. Đặc biệt, là quán triệt một số nội dung mới trên cơ sở bám sát vào yêu cầu cách mạng trong giai đoạn hiện nay, có tính lý luận và thực tiễn cao. Cụ thể như sau:
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành một cách khoa học, thận trọng, thường xuyên, chặt chẽ và hiệu quả; đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững và quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải xác định rõ, xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ là công việc khó, phức tạp, nhạy cảm, không thể làm một lần là xong; không chỉ là “công tác nhân sự” trước mỗi kỳ đại hội Đảng hay mỗi kỳ bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục, thận trọng, không cầu toàn và không nóng vội, làm có bài bản, làm đâu chắc đấy.
Đặc biệt, phải quán triệt quan điểm lần đầu tiên được Đảng ta đưa ra, đó là chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương phải đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; quan điểm phân công, phân cấp phải gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm. Quan điểm này thể hiện tính thượng tôn pháp luật nhưng đồng thời không làm mất đi cơ hội sáng tạo, không làm thui chột tư tưởng đột phá của cán bộ.
Tương tự như vậy, quan điểm xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó “xây” là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng; giữa đức và tài, trong đó “đức” là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể là một bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về công tác cán bộ. Sự hài hòa, hợp lý trong công tác cán bộ vừa đảm bảo nguyên tắc chung nhưng đồng thời cũng quan tâm đến tính đặc thù, đơn lẻ, thể hiện tính biện chứng, phù hợp với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ. Đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ phải đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Phát huy mạnh mẽ vai trò của cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân, phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Nắm vững và triển khai hiệu quả “Hai trọng tâm”, “Năm đột phá”
Tập trung thực hiện tốt, có hiệu quả 2 trọng tâm và 5 đột phá, việc triển khai hiệu quả để hoàn thành mục tiêu đã đề ra.
Công tác cán bộ liên quan đến nhiều mặt, nhiều khâu, nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ; trong đó có mặt chủ yếu và mặt thứ yếu, khâu chính và khâu phụ, yếu tố cơ bản và yếu tố không cơ bản, mối quan hệ bản chất và mối quan hệ không bản chất... Xác định “cái trọng tâm” trong công tác cán bộ không chỉ là vấn đề khoa học mà còn là nghệ thuật lãnh đạo, nhờ đó bảo đảm nguồn lực được đầu tư tập trung tác động vào mặt cơ bản, khâu chính yếu, yếu tố cơ bản và quan hệ bản chất, khắc phục tình trạng “dàn trải” trong tổ chức thực hiện.
Trọng tâm đầu tiên là phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và siết chặt kỷ luật, kỷ cương cùng với việc phải tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển, đồng thời có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Yêu cầu trước hết của “trọng tâm” trên đây đòi hỏi công tác cán bộ phải được tiến hành bằng quyết tâm chính trị cao nhất, không do dự, nửa vời, chiết trung, nhất là khi đụng chạm đến những vấn đề khó và phức tạp; phải tiến hành toàn diện, không bỏ trống bất cứ mặt nào, khâu nào, bộ phận nào trong khi phải tập trung cao độ cho các trọng tâm, trọng điểm; phải xác định phương pháp, cách thức phù hợp để đánh giá hiệu quả đầu tư. Đồng thời, bản chất của “trọng tâm” này là hướng vào giải quyết hai nhiệm vụ “kép”: vừa kiểm soát quyền lực, lập lại trật tự, kỷ cương ở một số khâu bị buông lỏng; vừa giải phóng các tiềm năng, thúc đẩy các năng lực đổi mới, sáng tạo và đột phá vì lợi ích chung của người cán bộ. Đây là hai mặt của một vấn đề, nếu xử lý không khéo sẽ dẫn tới cực nọ hay cực kia.
Trọng tâm thứ hai là phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời với việc tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Những bài học từ thực tế cách mạng nước ta cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng của cán bộ cấp chiến lược, bởi đây là đội ngũ hoạch định chiến lược và tổ chức thực hiện chiến lược, nếu đủ năng lực, phẩm chất, bản lĩnh sẽ đưa ra được đường lối đúng đắn, sáng suốt, mang tính đột phá và tổ chức thực hiện quyết liệt, nghiêm túc, bảo đảm thành công trong thực tiễn. Nguồn cho cán bộ cấp chiến lược phải trải qua một quá trình sàng lọc chặt chẽ ở cả khâu đào tạo, bồi dưỡng để phát hiện những người có tố chất tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, đặc biệt là thử thách trong thực tiễn với kết quả có thể lượng hóa, bởi thực tiễn là thước đo của chân lý.
Trong năm đột phá thì công tác đánh giá cán bộ được đặt lên hàng đầu vì đây là khâu yếu, nhìn chung chưa phản ánh đúng thực chất, phương pháp, quy trình còn bất cập; việc lượng hóa các tiêu chí đánh giá chưa sát, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể. Vì thế, phải đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương. Để các cách thức và phương pháp đánh giá nêu trên đạt kết quả như mong muốn đòi hỏi phải xác định rõ vị trí việc làm, giao việc một cách rõ ràng theo vị trí việc làm và hình thành bộ công cụ đánh giá cụ thể, khoa học, phù hợp với từng vị trí việc làm. Cái cần nhất chính là quyết tâm chính trị, bản lĩnh của người đánh giá đối với đối tượng được đánh giá. Tiếp đến là phải kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời, chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền. Đây là một trong những giải pháp đột phá rất quan trọng để có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung, cụ thể hóa, hoàn thiện các hình thức kiểm soát quyền lực cho phù hợp với tình hình mới. Mấu chốt vẫn là tập trung hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế để ràng buộc trách nhiệm với quyền hạn được giao. Đột phá thứ ba là việc thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương. Chủ trương này nếu thực hiện tốt, có hiệu quả sẽ tạo nhiều thuận lợi cho cán bộ trưởng thành lành mạnh và bảo đảm đồng bộ với hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực. Đột phá thứ tư cũng chính là một nội dung rất quan trọng được thảo luận riêng và thông qua tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XII. Đó là việc cải cách chính sách tiền lương để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Đột phá thứ năm và cũng là vấn đề hết sức cấp bách trong bối cảnh hiện nay khi mà lòng tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên nói riêng và đối với Đảng và chế độ ta nói chung đang có nguy cơ bị suy giảm. Đó là việc phải hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân và thông qua đó nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
Xây dựng và phát triển cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số
Thực tế cho thấy, sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, số lượng và chất lượng ngày càng được nâng lên. Tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy các cấp ngày càng nhiều; số lượng cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số tham gia lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, thậm chí trong lực lượng vũ trang và những lĩnh vực trước kia chỉ dành riêng cho nam giới ngày càng tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị tăng chậm, thiếu bền vững và chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Cấp càng cao thì tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số tham gia cấp ủy, làm lãnh đạo, quản lý càng thấp, cả ở Trung ương và địa phương. Tỷ lệ cán bộ nữ ở Trung ương từ cấp vụ trở lên mới có 17,54%; ở cấp tỉnh có 12,28%; ở cấp huyện có 9,98% trong khi Nghị quyết 11-NQ/TW đề ra chỉ tiêu về cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ là 25%. Số cán bộ người dân tộc thiểu số ở Trung ương là 5% và cấp tỉnh là 14,7%, thấp hơn so với tỷ lệ chung của cả nước. Cán bộ người dân tộc thiểu số diện Trung ương quản lý công tác ở địa phương có xu hướng giảm, nhiệm kỳ 2010-2015 là 33%, nhiệm kỳ 2015-2020 còn 27%.
Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII đưa ra mục tiêu cụ thể. Theo đó, đến năm 2030, phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp. Tỉ lệ nữ cấp uỷ viên các cấp đạt từ 20 đến 25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân cư. Để bảo đảm thực hiện được chỉ tiêu cơ cấu nữ, người dân tộc, Nghị quyết đề ra 4 cơ chế rất quan trọng. Theo đó, cấp ủy các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc; xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, có tính pháp lệnh; nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh với trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu. Việc thực hiện hiệu quả những cơ chế này sẽ khắc phục được những hạn chế về tỷ lệ nữ và người dân tộc thấp, chưa đạt mục tiêu đề ra trong những nhiệm kỳ qua.
Bên cạnh đó, để công tác cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số thực chất hơn, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về công tác cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số; nâng cao nhận thức, quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu bình đẳng giới; hoàn thiện chính sách theo hướng thống nhất, liên thông để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số một cách thực sự; làm tốt công tác tạo nguồn và quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số ở tất cả các cấp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm... Đồng thời, chính những cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số cũng phải ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình không ngừng phấn đấu, học tập, rèn luyện để lan tỏa những tấm gương sáng trong cộng đồng.
Đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên thời gian qua bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân sâu xa, chủ yếu trước hết là do bản thân cán bộ, đảng viên thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững, hoang mang dao động; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận trước Đảng và nhân dân. Đồng thời, các tổ chức đảng chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong bồi dưỡng, giáo dục, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, việc ban hành và thực thi cơ chế, chính sách vẫn còn bất cập, tạo môi trường thể chế thuận lợi phát sinh tiêu cực và những biến thái mới trong đời sống xã hội. Để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả các biện pháp như sau:
Trước hết, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên với coi trọng khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung Nghị quyết, cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp, đánh giá đúng thực tế, nhận diện và chỉ ra những biểu hiện cụ thể ở từng cán bộ, đảng viên để có giải pháp kịp thời. Đây là một trong những biện pháp thiết thực, hữu hiệu nhất nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cũng phải tự giác, tích cực rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, phong cách lãnh đạo; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong tự phê bình và phê bình; thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”; tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân...
Thứ hai, bằng hành động cụ thể, thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cụ thể, phải tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Thứ ba, tạo đột phá trong đổi mới cơ chế, chính sách đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đó là xây dựng cơ chế theo hướng tăng tính tự chủ, phân cấp, phân quyền, bảo đảm nguyên tắc có quyền thì phải có trách nhiệm, dùng quyền thì phải chịu trách nhiệm, lạm quyền thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm. Đồng thời, rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, hạn chế môi trường cho tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, lợi ích nhóm; tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; bảo đảm sự trong sạch về chính trị trong nội bộ.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng.
Công tác này phải được tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ, đạt hiệu quả thiết thực. Công tác kiểm tra, giám sát phải chủ động, toàn diện cả tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, năng lực công tác và kết quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao... Cần phát huy sức mạnh tổng hợp trong tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, nhất là vai trò của cơ quan, ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và quần chúng đối với cán bộ, đảng viên; gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng; kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm, những tổ chức đảng yếu kém trong thực hiện nhiệm vụ.
Xây dựng và chỉnh đốn lề lối, phong cách làm việc của cán bộ
Lề lối, phong cách làm việc là một bộ phận cơ bản cấu thành nhân cách con người, là một trong những thành tố quan trọng phản ánh chất lượng cán bộ. Vì vậy, xây dựng lề lối, phong cách làm việc khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp của cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý là một yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Đại hội XII xác định phải xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị[4]. Xây dựng lề lối, phong cách dân chủ, khoa học, chuyên nghiệp đối với cán bộ là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, mà sâu xa vẫn là thay đổi những nếp tư duy, tập tục, thói quen lạc hậu đã ăn sâu trong người cán bộ. Nó đòi hỏi quyết tâm chính trị rất cao của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, nhưng sâu xa hơn là phải khơi dậy được ý thức tự giác, lòng tự trọng, tinh thần tự tôn của mỗi cán bộ để hoàn thiện nhân cách, xứng đáng với một nhà lãnh đạo chuyên nghiệp trong xã hội đang thay đổi. Để xây dựng lề lối, phong cách làm việc khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp đối với cán bộ, cần nhấn mạnh một số giải pháp cụ thể như sau.
Một là, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng và hệ thống chính trị, toàn xã hội, mọi cơ quan, đơn vị yêu cầu cấp bách đổi mới, chỉnh đốn lề lối, phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên. Phải xem công việc này không chỉ nhằm hoàn thiện nhân cách của từng cá nhân con người mà là một giải pháp cơ bản xây dựng tổ chức, cơ quan, đơn vị vững mạnh. Bởi lẽ, lề lối, phong cách của mỗi con người là biểu hiện cụ thể, sinh động phương pháp công tác của tập thể, quyết định hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, là biểu hiện chất lượng cán bộ. Từng cấp ủy, đơn vị nhất thiết phải kết hợp giữa đẩy mạnh giáo dục với tăng cường kiểm tra, giám sát, uốn nắn, xử lý kịp thời những biểu hiện lệch lạc về lề lối, phong cách làm việc đang gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và niềm tin của quần chúng nhân dân. Cao hơn nữa là phải định hình được văn hóa lãnh đạo, văn hóa quản lý, văn hóa cầm quyền, mà ở đó lề lối, phong cách lãnh đạo, quản lý là bộ phận rất cơ bản.
Hai là, hoàn thiện hệ thống thể chế, quy định chuẩn mực về lề lối, phong cách làm việc của cán bộ, làm cơ sở cho đánh giá, giám sát, quản lý cán bộ. Hệ thống thể chế phải cụ thể hóa một cách tường minh các nguyên tắc tập trung dân chủ, hiệp thương dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách và chế độ thủ trưởng; các cơ chế phân quyền, trao quyền, ủy quyền, tản quyền; thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, cấp trên và cấp dưới... phù hợp với từng cấp, từng ngành, từng loại hình hoạt động lãnh đạo và quản lý; phải bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa quy định của Đảng với luật pháp nhà nước và các thể chế xã hội.
Ba là, đổi mới các khâu của công tác cán bộ hướng vào hoàn thiện lề lối, phong cách làm việc của cán bộ, đặc biệt là xây dựng phong cách làm việc khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp. Mỗi khâu khác nhau của công tác cán bộ đều tham dự trực tiếp hoặc gián tiếp vào hình thành và điều tiết lối làm việc, phong cách lãnh đạo, quản lý của cán bộ. Coi trọng giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó bao hàm cả giám sát lề lối, phong cách làm việc, đặc biệt là quan hệ với người dân, với cấp dưới, với đồng cấp, với công việc, với chính bản thân cán bộ về những cam kết chính trị trước đó.
Bốn là, hoàn thiện mô hình đào tạo hướng tới xây dựng lề lối, phong cách làm việc khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp đối với cán bộ. Cụ thể, phải sớm đổi mới căn bản mô hình đào tạo cán bộ, bao gồm cả đào tạo học đường và đào tạo ở nơi làm việc và đào tạo ở ngoài nơi làm việc. Chương trình, nội dung đào tạo cần tập trung hơn cho xây dựng thái độ, hành vi, tác phong chuẩn mực trong các quan hệ cơ bản của lãnh đạo, quản lý; định hình phương pháp công tác khoa học; rèn luyện kỹ năng lãnh đạo, quản lý hiện đại... Cần coi trọng phương pháp đào tạo tại hiện trường, đào tạo trên thực địa, đào tạo gắn liền với giải quyết các tình huống thực tiễn, qua luân chuyển...
Năm là, phát huy vai trò của người dân, báo chí và tăng cường áp dụng thành tựu khoa học - công nghệ trong lãnh đạo, quản lý, hiện đại hóa lề lối, phong cách làm việc của cán bộ. Phát huy vai trò của nhân dân, báo chí tham gia giám sát lề lối, phong cách của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đồng thời, cần phải ứng dụng tốt hơn thành tựu khoa học - công nghệ vào lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin để minh bạch hóa thái độ và hành vi công vụ của cán bộ, công chức khi thực hiện các quy trình giải quyết công việc, nhờ đó mà người dân có điều kiện giám sát cụ thể. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý còn giúp cho cán bộ, công chức có điều kiện giao tiếp, nắm bắt được thông tin phản hồi từ người dân một cách tốt hơn, trên cơ sở đó tự điều chỉnh hành vi, tác phong lãnh đạo, quản lý. Công nghệ thông tin ứng dụng trong lãnh đạo, quản lý còn giúp quản trị tốt hơn thời gian, kế hoạch công tác, nhờ đó điều hành một cách kịp thời, nhanh chóng và khoa học.
Tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ
Ngay từ khi mới có Đảng, Bác Hồ xem việc nêu gương là trách nhiệm của người cán bộ cách mạng, được đưa vào cuốn “Đường cách mệnh” làm tài liệu huấn luyện cán bộ. “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”[5]. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn xem nêu gương là một phương thức lãnh đạo rất quan trọng của Đảng và trong bối cảnh hiện nay, việc nêu gương của cán bộ, đảng viên hết sức cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhiệm vụ nêu gương của người đảng viên thời gian tiếp tục được phát triển và làm sâu sắc, toàn diện hơn trong các văn bản của Đảng trên cơ sở bám sát vào tình hình thực tế nhằm góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh[6].
Cán bộ, đảng viên phải nêu gương sáng về tinh thần phục vụ nhân dân, trở thành tấm gương của đạo đức liêm chính. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng, cán bộ, đảng viên thường đứng trước cám dỗ của tiền tài, danh vọng, dễ bị sa ngã, tha hóa, biến chất, nếu không giữ được đạo đức cách mạng sẽ không đủ uy tín để quy tụ, đoàn kết, tập hợp nhân dân thực hiện đường lối của Đảng. Lấy đức để cầm quyền vì thế là một nội dung trong phương thức lãnh đạo và cầm quyền của Đảng ta, mà hình thức cụ thể của nó chính là việc nêu gương của cán bộ, đảng viên trước nhân dân, của cấp trên trước cấp dưới, chức vụ càng cao càng phải làm tốt việc nêu gương. Đến lượt nó, khi nêu gương đã được quy phạm hóa thành chuẩn mực đạo đức cầm quyền thì sẽ trở thành một dạng thể chế buộc mọi cán bộ, đảng viên phải tuân theo, nếu vi phạm không chỉ phải chịu búa rìu của dư luận mà còn bị kỷ luật về đạo đức rất nghiêm khắc của Đảng.
Chỉ có thông qua hành động nêu gương của cán bộ, đảng viên mới có thể tạo được niềm tin cho quần chúng nhân dân đi theo, làm theo, hướng tới những mục tiêu cao cả của Đảng. Nêu gương có sức mạnh rất lớn về mặt tinh thần, có tính lan tỏa mạnh mẽ, tạo động lực, niềm tin vững chắc cho quần chúng tự nguyện, tự giác làm theo để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Nêu gương của cán bộ, đảng viên là một sáng tạo của Đảng ta trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Nó được kết tinh trên cơ sở phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú của Đảng ta và từ chính sự đòi hòi của quần chúng để Đảng không ngừng hoàn thiện, xứng đáng với vị thế, sứ mệnh và trách nhiệm cầm quyền, đặc biệt là từ học tập tấm gương mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tế cho thấy, nơi nào và lúc nào mà cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú ý phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên thì nơi đó và lúc đó vai trò lãnh đạo của Đảng suy giảm rõ rệt. Khả năng thuyết phục, sức lôi cuốn quần chúng của Đảng vì thế mà bị ảnh hưởng. Chính vì thế, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên không bao giờ được xem nhẹ. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, Đảng ta lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong rất nhiều trường hợp trách nhiệm cá nhân thiếu rõ ràng. Chính thông qua nêu gương mà cá thể hóa trách nhiệm, ít nhất là trách nhiệm chính trị và trách nhiệm đạo đức gắn với con người cụ thể, công việc cụ thể, trong đó việc nêu gương của cán bộ có chức vụ càng cao thì càng có ảnh hưởng lan tỏa rộng lớn để cho cấp dưới và nhân dân noi theo. Nó cũng giúp cho việc đánh giá và khen thưởng sát, đúng và thực chất hơn, khắc phục chủ nghĩa trung bình vẫn tồn tại bấy lâu nay.
*
* *
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử và vai trò cầm quyền của mình, Đảng ta luôn xuất phát từ thực tiễn để đề ra đường lối cách mạng, xác lập hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra. Trong ba nhiệm vụ trọng yếu đó thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định, vì việc hoạch định đường lối cách mạng có đúng hay không, xây dựng bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị như thế nào và kết quả thực hiện đường lối ra sao đều phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ. Sau 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, trong những năm tới, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhất là bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự trong sạch, vững mạnh để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững. Để có được những kết quả như mong muốn thì phải có sự nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của nhân dân và nhất là sự cố gắng vượt bậc của các cấp ủy, tổ chức đảng, của từng cán bộ, đảng viên, trong đó có vai trò rất quan trọng của người đứng đầu.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tập 5, tr.280, 313.
[2] Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2017.
[3] Cụ thể, đến năm 2020 phải thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết thành các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ phù hợp với tình hình thực tế và hoàn thành việc rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đến năm 2025, ngoài nội dung phải hoàn thiện, chuẩn hóa, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về công tác cán bộ thì phải xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định; cơ bản hoàn thành việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện, và đặc biệt là nội dung phải đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Đến năm 2030, mục tiêu đề ra là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp, có chất lượng cao, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng, đồng thời cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (lưu hành nội bộ), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.202-203.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tập 12, tr.558.
[6] Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư và Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị coi nêu gương không chỉ là nhiệm vụ, mà phải gắn với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; trong đó có việc học tập và làm theo gương đạo đức Hồ Chí Minh, một nhân cách lớn, người thầy của cách mạng Việt Nam. Quy định 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, chỉ rõ 8 nội dung các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải gương mẫu đi đầu thực hiện và 8 nội dung phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống; đồng thời, yêu cầu cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
TS. Lê Việt Trung, TS. Nguyễn Thị Thanh Mai, TS. Nguyễn Văn Tuân, CN. Ngô Xuân Thủy
Viện Khoa học tổ chức, cán bộ (Ban Tổ chức Trung ương)